Dienstag, 13. April 2010

Vượt lên co cụm để giành chiến thắng

Nguyễn Văn Huy

“… kiên trì kỷ niệm một thất bại có một cái gì không ổn. Sau một tai nạn hay một tai họa, những nạn nhân đều được ủy lạo tâm lý để tìm lại cuộc sống bình thường, cộng đồng người Việt tị nạn không có may mắn đó…”

Mỗi năm cứ đến ngày 30 tháng 4, cộng đồng người Việt tị nạn miền Nam tổ chức tưởng niệm ngày Sài Gòn lọt vào tay cộng sản. Năm nay là lần thứ 35.

Dư luận thế giới đã rất kinh ngạc về sự kiên trì này. Kỷ niệm tang thương nào rồi cũng qua đi, nhưng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại miền Nam nó không những đã không qua đi mà còn nhức nhối hơn trước, nhất là đối với những người ở vào lứa tuổi 50 như hiện nay. Những dự án cho tương lai và cuộc đời của họ đã trong một ngày bị mất đi tất cả. Càng ngạc nhiên hơn, uất ức bị thua trận này không đến từ những cấp lãnh đạo mà từ những cấp thừa hành, những cựu sĩ quan và công nhân viên chức trung cấp. Họ đã rất năng động trong những dịp kỷ niệm 30 tháng 4 để biểu lộ quyết tâm chống cộng.

Chống cộng có lẽ là động cơ chính hướng dẫn mọi sinh hoạt của cộng đồng người Việt miền Nam tại hải ngoại. Ba Mươi Lăm (35) năm đã trôi qua, sự kiên cường này không hề suy giảm. Ai cũng muốn được nhìn nhận là người chống cộng triệt để. Mọi cuộc họp mặt phải thể hiện quyết tâm này, nếu không sẽ khó được chấp nhận. Trong cuộc tranh giành chức vô địch chống cộng, không ai ngăn cản được ai và cũng không ai chế tài được ai. Sinh hoạt của cộng đồng người Việt hải ngoại miền Nam đã vì thế trở nên vô chính phủ. Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn nói gì thì nói. Càng hung hăng chửi bới cộng sản càng được ủng hộ, vì ai cũng sợ bị tròng lên đầu cái nón cối. Đồng thuận duy nhất mà mọi người chấp nhận không đụng tới là tôn giáo và văn hóa, nhưng ai cũng muốn lôi tôn giáo và văn hóa về phía mình để tham gia cuộc chơi chống cộng. Trong những dịp lễ lạc như Tết nguyên đán, Tết trung thu, ngày Phật đản, đêm Giáng sinh, ngày giỗ Tổ, kỷ niệm Hai Bà Trưng... muốn được đông người tham dự, ban tổ chức phải biểu lộ tinh thần chống cộng qua rừng cờ vàng ba sọc đỏ.

Nói tóm lại, kiên trì kỷ niệm một thất bại có một cái gì không ổn. Sau một tai nạn hay một tai họa, những nạn nhân đều được ủy lạo tâm lý để tìm lại cuộc sống bình thường, cộng đồng người Việt tị nạn không có may mắn đó. 35 năm đã trôi qua, không một tài liệu nào, không một thiên phóng sự nào nói về tâm lý cộng đồng người Việt miền Nam tỵ nạn sau ngày 30-4-1975. Hình ảnh những thuyền nhân Việt Nam lênh đênh trên biển cả có thể đã gây nhiều xúc động trong dư luận quốc tế, nhưng họ chỉ được ủy lạo và đưa đi định cư sang một quốc gia khác. Chấm hết. Không ai nhắc tới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, kể cả người Mỹ. Một trang sử đã bị lạnh lùng lật qua. Nhưng đối với cộng đồng người Việt miền Nam tị nạn, chế độ Việt Nam Cộng Hòa chưa chết, vết thương 30 tháng 4 do đó vẫn chưa lành.

Tại sao ám ảnh 30 tháng 4 tiếp tục hiện diện ?

Có nhiều lý do để giải thích.

Trước hết là tâm lý bị cưỡng bách đầu hàng. Dân chúng miền Nam không nhìn nhận sự chính đáng của Dương Văn Minh, một người được đề cử vào phút chót để thương lượng đầu hàng. Nhưng cho dù có chấp nhận hay không, lệnh đầu hàng đã được ban ra và toàn bộ dân quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa thời đó đều đã chấp hành, trừ một vài người đã tự sát để phản đối. Người ta không hiểu tại sao một quân lực hơn một triệu rưỡi người, được trang bị hùng hậu, chưa giao tranh đã tan rã nhanh chóng trong vòng một tháng. Một số cấp chỉ huy đã bỏ chạy, số còn lại bị đưa đi cải tạo, dân chúng miền Nam bị hạ nhục tập thể. Nỗi đau bại trận do đó vẫn còn nguyên trong tâm trí của nhiều người. Kỷ niệm ngày 30 tháng 4 chính vì thế là một hình thức phủ nhận sự đầu hàng và từ khước một thất bại không xứng đáng.

Thứ hai là tâm lý bất tín đối với các cấp lãnh đạo miền Nam. Chỉ khi ra được nước ngoài và sau khi ổn định cuộc sống, những người tị nạn mới nhận ra sự bất tài của các cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa. Không những thế, trước cảnh hoạn nạn của hàng trăm ngàn đồng bào vượt biên lênh đênh trên biển cả, không một người nào trong chính quyền miền Nam đã trốn chạy ra nước ngoài đứng ra ủy lạo hay an ủi những đồng bào bất hạnh. Ngược lại, những người tuyên bố hung hăng nhất chính là những người rời bỏ chạy trước nhất, những người được nhìn nhận có tài nhất cũng là những người từ bỏ đồng đội sớm nhất để chạy thoát thân. Những người ở lại cũng không vinh quang gì hơn, hình ảnh hàng chục ngàn sĩ quan và công chức miền Nam ngoan ngoãn xếp hàng vào trại cải tạo không một lời phản đối càng thêm gây thêm chán ngán. Bị chính quyền cũ bỏ rơi và bị chính quyền mới phân biệt đối xử, dân chúng miền Nam như rắn mất đầu, không ai buồn nhắc tới ngày 30 tháng 4. Chỉ cộng đồng người Việt miền Nam tị nạn tại hải ngoại vẫn tiếp tục kỷ niệm ngày này như một hình thức phủ nhận sự lãnh đạo tồi dở của các cấp lãnh đạo cũ.

Thứ ba là tâm lý muốn phục hồi lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại nước ngoài. Tại những nơi có đông người Việt tị nạn định cư, không khí và hình ảnh Sài Gòn cũ được tái tạo trong những hàng quán và cả trong phong cách giao dịch. Nhắc lại kỷ niệm 30 tháng 4, đối với nhiều người là nhắc lại sự sung túc và yên vui của cư dân thị thành một thời chinh chiến. Thêm vào đó, một số người còn tự phong cho mình những chức vụ chưa hề giữ để thỏa mãn những ước muốn chưa thực hiện được. Có nắm vững được yếu tố này mới hiểu tại sao mỗi năm cứ đến ngày 30 tháng 4, mọi người đều đổ dồn về những khu phố đông đúc người Việt tị nạn để xuống đường chống cộng, để rồi sau đó cùng nhau thưởng thức những bữa ăn ngon bên bình trà hay chai rượu mạnh, nhắc lại một thời "vàng son", hay để được người khác ca tụng mình.

Sau cùng là tâm lý tôn vinh tinh thần chống cộng của miền Nam, mà biểu tượng là cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ của phe quốc gia, từ vĩ tuyến 17 trở xuống. Những cuộc họp mặt không treo cờ vàng đều bị tẩy chay, hay bị lên án. Tại nhiều nơi, cộng đồng người Việt tị nạn còn thuyết phục các chính quyền địa phương nhìn nhận lá cờ này như biểu tượng chống cộng của cộng đồng người Việt. Trong những dịp xuống đường kỷ niệm 30 tháng 4, hay ngày quân lực Việt Nam Cộng Hòa, những cựu nam nữ quân nhân, mặc dù tuổi đã cao vẫn hiên ngang trong bộ quân phục cũ, và con cái họ diễn hành dưới rừng cờ vàng trên đường phố trong tiếng quân nhạc và những biểu ngữ chống cộng.

Kỷ niệm ngày 30 tháng 4 cho đến bao giờ? Câu hỏi này rất khó trả lời vì đây là một vấn đề tâm lý. Và tâm lý chỉ có thể giải thích bằng tâm lý. Hội chứng 30 tháng 4 là một vấn đề tâm lý. Phải có một động cơ tâm lý mạnh hơn, như tâm lý lạc quan, tâm lý chiến thắng mới lấn át được tâm lý hoài cổ của người Việt tị nạn hải ngoại.

Thấy gì trong thực tế?

Qua bốn yếu tố tâm lý vừa kể trên, hai tâm lý đầu là chính đáng, hai tâm lý sau cần nhận định lại.

Không gì oan ức bằng bị trói tay dẫn vào thất bại. Dân chúng miền Nam không xứng đáng với thất bại 35 năm về trước. Nhưng họ cũng không thể làm gì hơn vì những người lãnh đạo đất nước thời đó đã quá tồi dở. Đây là tình trạng chung của những quốc gia vừa thoát khỏi ách cai trị thời Pháp thuộc. Người Pháp không đào tạo một giai cấp lãnh đạo người bản xứ để cạnh tranh với họ mà chỉ đào tạo những cấp thừa hành để phục vụ quyền lợi của họ. Phần lớn nhân sự lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa thời đó đều là quân nhân hay công chức thời Pháp thuộc để lại. Có thể những người này là những sĩ quan có tài, những công chức chuyên cần, nhưng tất cả chỉ là những cấp thừa hành nên không được đào tạo và huấn luyện để có tầm nhìn chiến lược. Thêm vào đó, họ là những cá nhân cô đơn, không xuất thân từ một đảng phái chính trị nào, một hậu thuẫn quyền lực nào, do đó không được quần chúng hưởng ứng mạnh. Miền Nam thiếu hẳn một giai cấp chính trị. Trong khi đó, những đối thủ của họ có thể ít học hơn nhưng sau lưng họ là cả một guồng máy đảng ngày đêm hỗ trợ. Tập thể lúc nào cũng mạnh và sáng suốt hơn cá nhân. Phương tiện của một đảng lúc nào cũng nhiều hơn một cá nhân. Cầm quyền không có guồng máy đảng hỗ trợ là thiếu sót lớn trong sinh hoạt chính trị tại miền Nam trước 1975. Ngày nay thiếu sót này tiếp tục diễn ra tại hải ngoại, nhiều nhân sĩ lãnh đạo cộng đồng còn hãnh diện xác nhận không làm chính trị. Thật là khó hiểu.

Xây dựng lại một cái gì đã mất không những bình thường mà còn chính đáng. Phục hồi lại sinh hoạt của xã hội miền Nam trước ngày 30-4-1975 rất đáng hoan nghênh, nhất là tại xứ người. Nếu chỉ dừng lại ở phần kỷ niệm thôi thì không gì đáng nói. Nhưng ở đây những người lãnh đạo cộng đồng lại muốn biến những trung tâm có đông người Việt tị nạn thành những thành trì chống cộng. Rõ ràng là có một cái gì không ổn. Co cụm không phải là một chiến lược đấu tranh. Chống cộng là một phản ứng tình cảm, khi không đồng ý điều gì thì người ta có quyền chống, nhưng không thể biến một tình cảm thành một lập trường đấu tranh, đẩy xa hơn nó biến thành những bạo loạn. Chính vì thế những khẩu hiệu chống cộng hiện nay đang gặp bế tắc, vì tất cả các quốc gia cưu mang cộng đồng người Việt tị nạn đều thiết lập bang giao với chính quyền cộng sản Việt Nam. Chắc chắn Hà Nội sẽ phản đối và phong trào chống cộng phải xẹp xuống, vì không quốc gia nào muốn quan hệ với Việt Nam bị xấu đi bởi tình thần chống cộng này. Hơn nữa con cháu của thế hệ tị nạn cộng sản sau 1975 cũng không còn hăng hái tham dự những cuộc biểu tình chống cộng nữa, họ được huấn luyện để có một tầm nhìn xa hơn, đấu tranh bằng kiến thức hiệu quả hơn xuống đường la ó.

Sự co cụm của cộng đồng người Việt tị nạn tại hải ngoại làm nhớ lại tình hình miền Nam sau Hiệp định Paris 1973. Khi cuộc chiến chỉ còn diễn ra ở miền Nam thì phe miền Nam có thua hoặc huề chứ không thể nào thắng, vì không được mang quân ra Bắc.Giống như một trận bóng đá, khi chỉ còn giao banh trên một nửa sân thì đội banh ở nửa sân còn lại chỉ có thua, hoặc giỏi lắm là huề chứ không thể nào thắng, vì không thể đưa banh sang bên kia để làm bàn. Khi lực lượng quân sự miền Nam (thật ra là quân đội Hoa Kỳ) bị cấm mang quân ra Bắc thì miền Nam chỉ có huề (với chính phủ ba thành phần), hoặc thua. Kết quả như thế nào thì mọi người đều biết.

Tình trạng này đang diễn ra tại hải ngoại. Nghị quyết 36/NQ-TW của bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam, ban hành ngày 26-3-2004, đang bắt đầu phát huy tác dụng. Hà Nội có toàn quyền xâm nhập vào bất cứ nơi nào có đông người Việt cư ngụ tại hải ngoại để xây dựng cơ sở: lập lãnh sự quán, mua lại cổ phần của các cơ quan truyền thông và truyền hình Việt ngữ, mở cửa hàng mua bán, đưa du học sinh vào những trường đại học danh tiếng, mở lớp dạy tiếng Việt... Bên cạnh đó, những hội nghị Việt kiều, những trại hè, những cuộc thi đấu thể thao, những chuyến du lịch viếng thăm đất nước do Hà Nội tổ chức ngày càng đông người tham dự. Trước sự "tấn công" này, cộng đồng người Việt tị nạn hoàn toàn bất lực. Những thành trì chống cộng ở hải ngoại đang bị lung lay, khả năng mang cờ vàng xuống đường phản đối mất dần khí thế. Tháng 5-2004, hàng chục ngàn người mang cờ vàng xuống đường chống Trần Trường treo cờ cộng sản tại Bolsa (California) trong nhiều tuần lễ, bây giờ chưa tới một ngàn người xuống đường biểu tình chống Hà Nội thiết lập lãnh sự quán.

Trong bối cảnh đấu tranh bất bạo động như hiện nay, văn hóa là vũ khí hữu hiệu nhất để tiếp cận đồng bào mà những người lãnh đạo cộng đồng đã không những không biết khai thác mà còn lên án. Lấy thí dụ việc thiết lập các lãnh sự quán, nếu Hà Nội lập được những tòa lãnh sự tại những nơi có đông người Việt tị nạn cư ngụ thì người Việt hải ngoại phải vận động với lãnh đạo quốc gia mình cư ngụ dùng quyền hỗ tương thiết lập những cơ sở lãnh sự, phòng thông tin văn hóa khác tại Việt Nam, qua đó chuyên chở những thông điệp nhân quyền và dân chủ vào trong nước. Tại sao văn nghệ sĩ trong nước tha hồ ra nước ngoài trình diễn, trong khi văn nghệ sĩ hải ngoại về nước thì bị lên án? Tại sao cứ tiếp tục đá banh trên nửa sân của mình?

Rút ra bài học nào?

Phải biết xâm nhập để tranh thủ nhân tâm, phải vượt lên co cụm để giành chiến thắng.

Ở vào thời điểm này, vai trò của cộng đồng người Việt hải ngoại có tầm quan trọng quyết định. Người Việt hải ngoại gồm trên hai triệu rưỡi người, với hơn một nửa triệu người tốt nghiệp đại học và một số thu nhập cao hơn tổng sản lượng quốc gia (GDP) của quốc nội. Số tiền gởi về nước hàng năm cũng cao hơn bất cứ khoản viện trợ quốc tế nào. Cả khối người này nếu chỉ được thôi thúc bởi lòng thù hận thì cũng không tác động được vào trong nước và do đó không làm gì được chế độ cộng sản. Ngược lại, nếu lấy lòng yêu nước, lấy hòa giải và hòa hợp dân tộc làm tinh thần chỉ đạo và lấy thắng lợi của dân chủ làm mục tiêu đấu tranh thì khả năng thắng đảng cộng sản sẽ biến thành hiện thực.

Cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều khả năng và phương tiện để liên lạc và đi lại đều đặn về trong nước. Nếu được trang bị bằng một lập trường chính trị bao dung, họ sẽ một mặt động viên đồng bào tham gia cuộc vận động dân chủ, mặt khác khuyến khích và phối hợp với nhiều người dân chủ trong nước, kể cả những người dân chủ trong guồng máy đảng và nhà nước cộng sản, phổ biến những đường lối dân chủ, lên án những hành vi sai trái. Hải ngoại sẽ bảo đảm mặt trận vận động quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của thế giới và sẽ nhân lên nhiều lần tác dụng của những cố gắng tranh đấu cho dân chủ ở trong nước.

Người Việt hải ngoại ngày càng ý thức rằng họ vừa có vai trò của một đội tiền phong đắc lực trên mặt trận quốc tế vận vừa có tiềm năng của một hậu phương an toàn và hùng mạnh, cung cấp đầy đủ nguồn tài chính, thông tin, ý kiến và lý luận cho mặt trận quốc nội. Ý thức rằng một kết hợp dân chủ trong và ngoài nước có thể đánh bại đảng cộng sản dễ dàng đang càng ngày càng rõ rệt, và khi nó đã rõ rệt thì chế độ cộng sản sẽ bắt buộc phải chấp nhận tiến trình dân chủ hóa để tránh sụp đổ trong thảm khốc. Đấu tranh để buộc đảng cộng sản phải chấp nhận luật chơi dân chủ và bầu cử tự do như vậy là một cuộc đấu tranh chắc chắn sẽ thắng lợi và sẽ thắng lợi sớm. Vấn đề của các lực lượng dân chủ là tập trung cố gắng để bầu cử tự do đến thật sớm và trong những điều kiện thật tốt đẹp. Nhưng đấu tranh chính trị bao giờ cũng là đấu tranh giữa những tập thể, và cuối cùng chỉ diễn ra giữa hai lực lượng và hai mục tiêu đối nghịch, chứ không thể là đấu tranh giữa những cá nhân.

Nói tới đấu tranh là nói tới tổ chức và kỷ luật. Bài học 30-4-1975 cho thấy một đoàn quân đông đảo và được võ trang đầy đủ nhưng không có chỉ huy và thiếu quyết tâm vẫn thảm bại trước một đạo quân trang bị thô sơ nhưng có tổ chức và kỷ luật. Đấu tranh chính trị do đó luôn luôn là đấu tranh có tổ chức và chỉ khi có đồng thuận trên những mục tiêu chung mới bắt đầu xây dựng tổ chức.

Xây dựng như thế nào? Đó là cả một tiến trình kỹ thuật và chuẩn bị, chỉ những tổ chức và tập thể mới đủ khả năng và điều kiện để thực hiện. Đầu tiên là phải xây dựng cho bằng được một cơ sở tư tưởng chính trị để làm điểm hội tụ, kế là một đội ngũ cán bộ nòng cốt để phổ biến, tiếp theo là kiểm điểm phương tiện và sau cùng mới tranh thủ sự đồng tình của quần chúng. Chỉ sau khi hội đủ bốn điều kiện trên, giai đoạn công khai xuất hiện mới bắt đầu. Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, hải ngoại có thể đảm nhiệm hai giai đoạn đầu, sau đó kết hợp với trong nước thực hiện hai giai đoạn sau.

Cộng đồng người Việt hải ngoại là đầu cầu chuyên chở thông tin, do đó không nên co cụm mà phải vận động về nước ngày càng đông hơn để phá vỡ bức tường bưng bít và giành thắng lợi.

Nguyễn Văn Huy

http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4740