By Harry F. Noyes III
Tác giả là cựu chiến binh HK tại Việt Nam trong quân chủng Không Quân Hoa Kỳ. Sau cuộc chiến trở về, ông lấy được văn bằng cao học về Nghiên Cứu Á Châu từ trường Ðại Học Hawaii. Bài này được đăng trong tạp chí Vietnam, số tháng 8, 1993. ***
**Họ vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước
mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau. **
**Không lạ gì lính Mỹ khi qua viễn chinh ở vùng Ðông Nam Á - hầu hết
đều là trai trẻ, học thức bình thường, được rập khuôn trong một xã
hội quá cao ngạo và quá ít hiểu biết về những nền văn hóa khác - khó
lòng cảm thông được với những người chiến binh miền Nam VN. **
**Ðiều đáng tiếc hơn nữa là nhiều cựu chiến binh lúc trở về lại đi
gia nhập vào hàng ngũ của những nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu
chính trị để bêu xấu danh dự của một đạo quân nay không còn có thể
tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân đã mạng vong
trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi đê tiện, không
xứng danh là người chiến binh Hoa Kỳ. **
**Chắc một số người sẽ cho rằng điều khẳng định của tôi là quá đáng.
Vậy chứ tôi phải làm thế nào để bào chữa cho họ đây? Mọi người đều
'cho' họ là một lũ bất tài, phản trắc và hèn nhát, phải như vậy
không? **
**Không, hoàn toàn sai. Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ
hùng hồn để đánh đổ cái huyền thoại thô bỉ này, đồng thời cũng sẽ
khảo sát xem do đâu phát sinh ra huyền thoại ấy. **
**Dĩ nhiên phải công nhận là quân lực Nam Việt không toàn hảo. Người
chiến binh của họ phải chiến đấu với những kẻ lãnh đạo tồi, những
quân nhân hèn nhát, chịu đựng những cuộc khủng hoảng, những biến cố
tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở Ðông Nam Á cũng không hơn gì đâu. **
**Trên một số phạm vi như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và
lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua bên phía Mỹ. Nhưng có ai trông mong
gì khác hơn từ một quốc gia đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách
thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một quân
thù hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ? **
**Thực tế mà nói, những nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của
quân Mỹ thời chiến tranh Ðộc Lập của Hoa Kỳ (American War of
Independence) , dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18 có nhiều điểm
thuận lợi như: cái qui mô của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng
(Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn; quá trình thuộc địa
Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương,
cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự;
quân Anh không quá ngoan cố như quân BV; và quân đồng minh Pháp thời
bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Nam
Việt Nam. **
**Nhưng dù sao chăng nữa, cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và
ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn chưa phải là những phẩm chất để
dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt. **
**Có hai câu hỏi đánh động đến đề tài tranh cãi. Phải chăng người
chiến binh Nam Việt thiếu chí khí, lòng quả cảm, sự can trường và
lòng ái quốc mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt thị và gán lên đầu
họ mọi trọng tội vì đã đánh mất cái giá tự do của vùng Ðông Nam Á?
Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như
vậy? Trả lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là
'Không!' **
**Chứng cớ quá rõ ràng. Trận Tổng Công Kích Tết 68 coi như sẽ đập
tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, quân NV đã
kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay tháo
chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính
qui đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu
súng Colts. Dựa theo báo cáo, sau trận này số người xin đăng lính
cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoãn bớt việc thu
nhận thêm tân binh. **
**Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, quân trú phòng NV bị vây hãm tại
An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm
của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa
tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường
thuật lại mẩu chuyện một tiêu đội lính NV trong vùng được cử công
tác thanh toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ chu toàn
nhiệm vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai
chiếc còn lại. Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc
bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường.
Việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng
tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu
cao và thế chủ động mà mọi binh sĩ NV đều có. Dĩ nhiên điều tôi kể
chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát. **
**Ðể minh chứng hơn, hãy nhìn vào Nam Việt Nam ở thời điểm cuối cùng
vào năm 1975 khi đất nước này đang trong tình trạng tuyệt vọng khi
biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả nhiên liệu lẫn đạn dược).
Thế mà một đơn vị NV tầm cỡ một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn
BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ riêng
một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công
nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Quân NV sau đó đành phải
lui binh vì Không Quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu. **
**Có lần tôi xem được một phim tài liệu truyền hình do một phóng
viên người Úc quay tường thuật về cuộc chiến. Khác với các phóng
viên HK, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh sĩ NV. Anh ta
ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của
mình. Anh còn kể rằng anh từng ghé qua một làng do địch kiểm soát và
nghe nói lại rằng lính CS còn sợ lính NV hơn cả lính Mỹ. Lý do chính
là lính Mỹ bao giờ cũng ồn ào, nên khi nào lính Mỹ đến là họ biết
ngay. Chỉ vậy thôi thì có gì họ phải kinh sợ nếu quân NV không là
những chiến binh nguy hiểm. **
**Tuy vậy, chứng cớ quan trọng nhất chứng tỏ ý chí chiến đấu của
quân nhân miền Nam đến từ hai sự kiện hiển nhiên, những sự kiện vốn
thường hay bị lãng quên hoặc che giấu để che đậy sự thất bại của
người Mỹ ở Việt Nam. **
**Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh VN đã khởi sự đâu đó bảy năm trước
khi lực lượng chính của Hoa Kỳ đổ đến và sau đó lại tiếp tục thêm
chừng 5 năm sau khi quân Mỹ rút ra. Trong khoảng đó phải có ai đó
đang chiến đấu mà kẻ đó là người miền Nam chứ còn ai khác hơn. **
**Sự kiện thứ hai: Quân đội NV thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ
trên chiến trường. Theo tỉ lệ dân số thì tương đương hai triệu lính
Mỹ chết (một con số gấp đôi tổn thất của Mỹ trong tất cả các chiến
tranh gộp lại). Cho rằng người ta không chịu chiến đấu thì sao họ
lại chết nhiều như vậy. **
**Vậy thì do đâu mà NV phải chịu mang tai tiếng xấu? **
**Dĩ nhiên có lúc họ tỏ ra bất tài và hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy
thôi. Tôi biết một câu chuyện qua một đơn vị trưởng pháo binh HK
rằng khi hay tin đại đội bộ binh bảo vệ mình bị địch đánh tan tành,
các pháo thủ đâm hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm trợ này
hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn. **
**Một biến cố đơn thuần đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực
HK là hèn nhát thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của người đồng minh
của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh miền Nam là
hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói bởi một số cựu
chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính
quyền Mỹ đã để cho Nam VN bị suy vong. **
**Sự thật được minh bạch hơn qua mẫu đối thoại sau đây phát xuất từ
hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ
Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không. **
**Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ
chạy cả, thưa bà.” **
**Một nghiên cứu qua loa trong quân sử cũng xác minh được điều này.
Những trận đánh thời Nội Chiến (Civil War) cho thấy sự can trường
lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống, cả những đơn vị phe
Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau đó co cụm
lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp
tục chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động
hy sinh anh hùng bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc
chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu. **
**Văn sĩ S. L. A. Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị
bộ binh HK thời Ðệ Nhị Thế Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công
vừa hò hét. Ðơn vị thứ hai nằm lại quyết chiến và nhanh chóng tiêu
diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vỡ lẽ ra là đa số bọn chúng
không có võ khí. **
**Nếu sự việc tương tự xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự
xưng là học giả uyên thâm lập tức ra rả lập đi lập lại rằng ấy là
chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của quân đội miền Nam. **
**Tại sao vậy? Chúng ta ắt đã ngầm có câu trả lời rồi. Mọi sự còn
tùy là cái quân đội đó thuộc chủng tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự
thật đốn mạt là cái quân đội Nam Việt phải chịu mang tai tiếng xấu
bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần sô-vanh nước lớn
của người Mỹ. **
**Tôi xin tự minh chứng về khuynh hướng bóp méo sự thật vốn tràn lan
rộng khắp. Lúc vừa mới đặt chân đến Nam VN vào Tháng Sáu năm 1969,
lập tức tôi được chứng kiến những trường hợp bày tỏ thái độ ngu dốt
và khinh miệt của một số người Mỹ dành cho người dân cũng như quân
đội quốc gia này. **
**Các binh sĩ Mỹ trắng cũng như đen, luôn cả những người trong các
dịch vụ thuộc dân sự như truyền thông báo chí thẩy đều như nhau.
Thái độ căm ghét này dành cho xứ sở cùng dân tộc VN kinh khiếp thay
lại có một sức mạnh truyền nhiễm kinh hồn. **
**Một viên đại úy Mỹ tôi được biết có trình độ tốt nghiệp đại học về
ngành điện ảnh từ một trường có tiếng tăm (coi như họ được đào tạo
để có cái nhìn chuyên môn hơn người thường). Có lần anh ta sau công
tác tạm thời ở Thái Lan trở lại VN đã hết lời ca ngợi dân Thái. **
**“Dân Thái người ta họ cho con đi học đàng hoàng,” anh ta nói,
“khác với tụi nhỏ con của người Việt ở đây.” Khi tôi chỉ cho anh ta
thấy không đâu xa mà ngay kế bên căn cứ còn có một trường học thì
anh ta ngạc nhiên nhưng không hề tỏ ra ân hận về nhận xét của mình.
Hằng trăm trẻ nhỏ trong đồng phục quần xanh áo trắng cắp sách đến
trường mỗi ngày mà bất cứ ai có mắt đều nhìn thấy. Vậy mà tên làm
phim này lại không. **
**Chua chát thay, dân VN vốn quí trọng sự học còn hơn dân Mỹ, họ đã
nâng trình độ người đi học từ 20 lên đến 80 phần trăm dù chiến tranh
đang dày xéo chung quanh (dù ngay cả các giáo viên vẫn thường xuyên
bị sát hại bởi đối phương). Vậy mà vẫn còn bị tên làm phim này gán
cho cái tội là một xứ sở không trường không lớp. **
**Vì phải viễn chinh nơi một xứ sở xa lạ, xa gia đình, người Mỹ này
đã tự hun đúc cho mình một lòng thù ghét đất nước VN, hắn muốn tin
rằng người Việt là đáng khinh. Do vậy, điều quan trọng đối với hắn
là phải tin tưởng rằng người Việt không có trường học dành cho con
cái họ; và chính cảm xúc đó làm mù đi thị giác của hắn. **
**Hãy nghĩ tưởng đến cảm tưởng của khối quân Mỹ ít học thức hơn khi
phải trực diện với nền văn hóa xa lạ trong một môi trường đầy căng
thẳng! Có lẽ ta không nên đổ lỗi cho các binh sĩ ấy về thái độ kém
cỏi của mình. Trời đất còn biết là giới chỉ huy HK chỉ nỗ lực qua
loa để giáo dục cho binh sĩ mình về đất nước VN và tính chất của
cuộc chiến. **
**Tuy vậy, đó không phải là lý do để bào chữa cho các cựu chiến binh
giả vờ cho là mình hiểu về những gì mình thấy ở VN. Ta phải tri ân
các cựu chiến binh chiến tranh VN về đức tính quả cảm, sự hy sinh và
lòng trung thành đối với tổ quốc. Nhưng tính quả cảm và sự hy sinh
không đi đôi với sự hiểu biết. Chiến đấu ở VN không làm cho người
lính thành những chuyên gia về đất nước hay cuộc chiến đó, cũng như
có con không phải làm cho người mẹ trở thành một chuyên gia về khoa
phôi thai (embryology) . **
**Những gì người lính Mỹ làm ở VN không dạy cho họ chi hơn về nền
văn hóa, xã hội, chính trị, vân vân và vân vân của Nam Việt. Một ít
người Mỹ có học lỏm bõm được vài tiếng Việt; ngay cả có một vài đọc
được sách báo VN; và chẳng bao nhiêu người đọc sách vở viết về xứ sở
Việt Nam bằng Anh ngữ. **
**Ngoại trừ các cố vấn, ít người Mỹ nào làm việc gần gũi với những
người Việt, có chăng họ có chung đụng với những người làm thư ký,
giặt giũ, và nữ hầu bàn do quân đội HK mướn. **
**Ðiều quan trọng hơn cả là ít quân nhân HK nào từng chứng kiến sự
chiến đấu của binh sĩ NV. Ít ai có bao giờ xét đến thái độ khác biệt
hiện hữu trong tâm tư những chiến binh nơi chiến trường ấy, quân Mỹ
sang chiến đấu một năm rồi về, họ yên tâm là gia đình họ đều đang
bình yên ở nơi chính quốc; trong khi người lính miền Nam thì khác,
hằng ngày họ phải lo lắng cho sự an nguy của gia đình mình, họ thừa
hiểu rằng chỉ có cái chết hay chỉ có bị thương ở mức độ tàn phế họ
mới ra khỏi được đời sống quân ngũ. Ðương nhiên người Việt ắt phải
dùng một thước đo riêng để quyết định cái gì là quan trọng hơn để
chiến đấu. **
**Giới nhà báo không khá gì hơn. Thử xét xem về một cuộc tường thuật
truyền hình thiên vị mà tôi đã được xem trong đó người phóng viên tố
giác Không Quân NV mặc dù đã Việt Nam Hóa chiến tranh, đã không chịu
bay, để cho KQ HK phải lãnh những sứ mạng nguy hiểm chống lại BV. **
**Nói cho đúng thì chính HK không chịu để cho NV bay ra miền Bắc
(ngoại trừ một vài phi vụ trong thời gian mở màn của các cuộc giội
bom). Giới lãnh đạo HK muốn kiểm soát việc ném bom vì có thế HK mới
có thể dùng nó như một công cụ để mặc cả trong bàn thương thảo. **
**Bởi không muốn NV xen vào việc ném bom, HK cố ý chuyển giao cho NV
những trang bị không thích hợp cho các phi vụ đánh phá miền Bắc. Nam
Việt không có phi cơ chiến đấu, vũ khí, máy bay tiếp tế xăng trên
không, hoặc cả những thiết bị điện tử cấn thiết cho những phi vụ ấy.
Chính người Mỹ đã quyết định làm như vậy. **
**Người phóng viên nêu thắc mắc kể trên hoặc đã quá khờ khạo hoặc đã
chọn sự tảng lờ để thực thi hành động báng bổ người đồng minh của
HK. Căn cứ vào những lời lẽ vu khống cùng giọng điệu om sòm, tôi đi
tới kết luận là sự thiếu kiến thức của anh ta hoàn toàn do cố ý. **
**Một dẫn dụ khác về tính thiên vị của giới truyền thông là vào thời
điểm Khe Sanh bị bao vây. Nếu ta hỏi một ngàn người Mỹ có đơn vị
tham chiến ở Khe Sanh, hầu hết ai nghe nhắc đến trận ấy hẳn đều biết
TQLC Mỹ chiến đấu ở đó. Nhưng nếu có hơn một người trong số một ngàn
người đó biết có một tiểu đoàn BÐQ NV cũng đã san sẻ sự cam khổ ấy
thì quả là điều đáng ngạc nhiên. Trong khi ấy còn có những đơn vị NV
khác cũng dự phần vào những cuộc hành quân yểm trợ bên ngoài căn cứ
đang bị vây hãm này. Báo chí Mỹ coi đồng minh của HK như không đáng
để tường thuật đến trừ khi họ phạm điều gì ô nhục, vì thế những
chiến sĩ chiến đấu can trường kia trở nên những người hùng vô hình
tại Khe Sanh. **
**Sự thiên vị này, lính Mỹ lẫn giới truyền thông HK đã đồng ca rõ
rệt khi tường thuật về cuộc hành quân bất ngờ vào lãnh thổ Lào năm
1972. **
**Thử xem lại một tài liệu truyền hình được đưa ra một thập niên
trước đây. Tài liệu này bao gồm cuộc phỏng vấn một số binh sĩ Mỹ
trong khi chiến trận tại Lào đang diễn ra. Những quân nhân HK này,
đứng bình yên bên lãnh thổ NV, có những lời nhận xét cay độc, kỳ thị
dành cho các binh sĩ NV đang chiến đấu ở bên kia biên giới. Người
phóng viên truyền hình này bày tỏ rằng lính Mỹ hiểu rõ tình hình hơn
các tướng lãnh của họ. **
**Cuộc tấn công lên đất Lào dĩ nhiên là nguồn gốc của bức hình nổi
tiếng cho thấy hình ảnh một người lính NV đang đeo trên càng một phi
cơ trực thăng để tìm cách vượt thoát. Hình ảnh này được liên tục
tung ra trước công chúng Mỹ như là 'chứng cớ cho thấy người miền Nam
là đáng khinh tởm. **
**Quả thực đây là một thủ thuật xưa như trái đất để xuyên tạc sự
thật bằng sức mạnh của hình ảnh. Những gì xảy ra bấy giờ đúng ra là
như vầy: Quân NV gặp phải lực lượng đông đảo của đối phương trong
khi quân Mỹ không yểm trợ được như đã hứa vì hỏa lực phòng không của
địch quá mạnh. Có nhiều báo cáo cho biết phi hành đoàn trực thăng
phải đạp những két đạn đại bác xuống đầu các đơn vị NV từ độ cao
5,000 bộ trở lên chỉ với hy vọng quân NV sẽ nhận được. Các phi cơ
này quả tình là không dám xuống thấp hơn. **
**Trong phạm vi vấn đề này, thử xem nhận xét của một sĩ quan HK, Ðại
Tá Robert Molinelli, người đã mục kích tận mắt, được đăng tải trong
Armed Forces Journal (Tập San Quân Ðội) số ngày 19 Tháng Tư, 1971
như sau: “Một tiểu đoàn NV gồm 420 người bị bao vây bởi một trung
đoàn đối phương đông đến từ 2,500 đến 3,300 quân trong suốt ba ngày
ròng. Phía HK không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến
đấu đến gần cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ
khí và đạn dược thu được của địch quân. Ðơn vị này còn mang theo
những đồng đội bị thương cũng như đã chết. Hình ảnh phi cơ trinh sát
chụp được cho thấy rải rác chung quanh đơn vị này là xác của 637
quân địch. **
**Ðơn vị này chỉ còn 253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu
khi họ chạy đến được một đơn vị NV khác. Một số ít trong số 17 kẻ
hoảng sợ đã bám càng trực thăng để thoát thân. Số còn lại, tất cả
đều không.” **
**Giờ đây, chắc có người cho rằng đeo càng trực thăng để thoát cho
nhanh, dù rằng dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không mà phi cơ lại bay
cao và nhanh. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một trường hợp cá biệt, việc
lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến thuật khó khăn
nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội cho cả
một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc? **
**Câu trả lời rằng đó là do chính lòng kỳ thị chủng tộc. Vì lẽ những
người bám càng trực thăng là người ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là
người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không sai rằng ta sẽ cảm
thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã. **
**Minh chứng cho điều này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế
nào đối với lính Anh trước cuộc triệt thoái của họ hồi thời gian đầu
Thế Chiến Thứ Hai. **
**Nơi đây cũng có những hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở
Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở Dunkirk một hạ sĩ quan để
tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngũ của mình đang
hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng
súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này
leo lên tàu qua ngỏ tháp súng. Tại đảo Crete, một lữ đoàn quân Tân
Tây Lan đã tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn
không cho các quân Anh đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình. **
**Tuy thế, hình ảnh nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại
là một hình ảnh hào hùng. Ðiều này được minh chứng bởi sự kiện hoàn
toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn lẻ như vừa nêu bật ở trên
vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức tính can
trường và xả thân cứu nước của dân tộc này. **
**Quả thật quân Nam Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng
của miền Nam qua sự bảo vệ Xuân Lộc vô cùng anh dũng. **
**Tuy rằng có nhiều lý do như vậy. Thẳng hoặc có nhiều lý do để tin
rằng, nếu có sự ủng hộ trung thành của phía người Mỹ ắt Nam quân sẽ
chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ
cũng đã cứu được đất nước họ không bị mất. **
**Vấn đề được nêu ra không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam
Việt như thế nào nhưng mà xét xem người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu
tình huống tương tự xảy đến với họ. **
**Sự thật là quân Mỹ nếu bị HK bỏ rơi như chính NV đã phải chịu, có
lẽ họ cũng sẽ không khá chi hơn. **
**Hãy nhớ rằng: năm 1974 Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho Nam Việt một
cách thê thảm một vài tháng trước khi đối phương mở cuộc tấn công
sau cùng. Kết quả của sự cắt viện trợ là chỉ một ít nhiên liệu và
đạn dược gửi sang cho miền Nam. Các phương tiện để vận chuyển cả
trên không lẫn trên bộ đều phải bị bỏ xó vì không có cơ phận thay
thế. Quân lính NV đi hành quân không có bình điện để liên lạc vô
tuyến, y tá trên chiến trường không có đủ y dược cụ căn bản. Trong
những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân Nam Việt phải chiến
đấu thắt lưng buộc bụng, họ được phép bắn ba viên mỗi ngày, khẩu
phần này áp dụng cho cả súng trường lẫn đại bác. **
**Tình trạng tồi tệ đến nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm
được miền Nam cũng chấp nhận sự thật là khả năng lưu động và hỏa lực
của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước đây. Vậy thì ngoài sự
thiếu thốn vật chất này ra, sự chiến đấu kiểu nhà nghèo này cũng tác
động lớn lên tinh thần chiến đấu của người lính NV. **
**Quân BV với trang bị đầy ắp, với những chiến xa tối tân, với những
xe cơ giới chở quân hiện đại, họ đã đánh thẳng vào miền Nam suy sụp
này bằng cuộc tấn công phủ đầu. **
**Phải, quân NV đã gác lại, đã vứt bỏ chiến cụ (không vứt cũng coi
như vứt vì có cơ phận đâu mà thay), cả đạn dược cũng bị bỏ lại (số
lượng mà họ đã chắt chiu dành dụm được, mang theo đến phút cuối cho
tới lúc biết là đã quá muộn màng rồi không có cơ hội để bắn hay mang
theo được nữa, họ thừa biết họ sẽ không bao giờ có thêm để mà bắn).
Vậy thì lỗi nơi ai? Họ hay người Mỹ? **
**Phải, quân NV đã triệt thoái khỏi các tỉnh phía Bắc một cách vụng
về và khá muộn màng, đưa đến tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng
làm thế nào chính quyền miền Nam có thể bỏ mặc dân chúng sớm hơn
được, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế? **
**Ðã có lúc Nam VN hy vọng B-52 trở lại để giúp họ chặn bớt làn sóng
xâm lăng của Cộng Sản. Khi biết rằng điều ấy sẽ không xảy đến, tinh
thần chiến đấu của họ bị suy sụp cũng không có gì đáng ngạc nhiên. **
**Không còn nhuệ khí chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngũ - làm
thế không phải vì họ hèn nhát hay không có tinh thần hy sinh để bảo
vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn xả thân cho một sự nghiệp
biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình họ đang khẩn
thiết cần đến mình. **
**Quân Mỹ liệu sẽ làm gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình
huống như Nam VN hồi 1975? Liệu quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với
quân xa, truyền tin đều hỏng, hệ thống quân y què quặt, thiếu thốn
nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu như không
có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ
địch có quyết tâm cao, hùng mạnh, trang bị tối tân, sung mãn. Tôi e
là không thắng nổi. **
**Liệu NV có thắng được trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự
cam kết, và tiếp tục chi viện cho NV không kém với chi viện mà khối
CS dành cho miền Bắc? **
**Câu trả lời là không biết được. Ít ra họ có một cơ hội để đọ sức,
cái cơ may mà người Mỹ phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là
họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn. Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã
gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu danh muôn thuở cho hậu
duệ, để tiếp tục chiến đấu dưới hình thức du kích chiến rập khuôn
theo kiểu Afghanistan. **
**Cho dù NV có đại bại, sự ủng hộ hết mình của Hoa Kỳ ít ra cũng
khiến họ có thể nhún vai mà nói rằng dù sao họ cũng đã giúp đỡ hết
mình rồi. Ðằng này người Mỹ chưa có hết mình giúp đỡ. Những kẻ nào
muốn trốn tránh sự thật ấy bằng cách quay ra báng bổ NV và quân đội
ấy là không phải lẽ. **
**Trước một tội ác tày trời bỏ mặc cho nhân dân miền Nam rơi vào tay CS, người Mỹ sau này quay ra đi làm điều tốt kể ra đã quá muộn màng.
Nhưng nếu biết nhìn lại và công nhận mình đã sai lầm khi sỉ nhục lương tâm của người miền Nam ấy thì chưa có muộn đâu. Cũng chưa muộn màng gì nếu ta biết khởi đầu vinh danh đúng mức những thành tích họ đã đạt được cùng những hành động hào hùng họ đã tạo nên để bảo vệ cho lý tưởng tự do. **
**By Harry F. Noyes III***