Mittwoch, 9. Dezember 2009

Bản bào chữa của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà cho nhà báo Dương Tiến

Thưa Hội đồng xét xử,

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên Tòa, tôi có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng thân chủ tôi, ông Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, nguyên Trưởng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Điều 258 Bộ Luật hình sự như Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (sau đây gọi tắt Tòa án thành phố Đà Nẵng) do Thẩm phán – Phó Chánh án Nguyễn Thành làm chủ toạ HĐXX đã tuyên tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2009/HSST ngày 07/8/2009 (sau đây gọi tắt Bản án).

Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân…”, Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Rồi các Điều 68, 137 BLTTHS quy định về lời khai của người bị hại, Điều 191 BLTTHS quy định sự có mặt của người bị hại tại phiên tòa… Như vậy theo pháp luật hình sự, tội phạm được xác định bởi người bị hại, không có người bị hại thì không có tội phạm.

Chắc chắn “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” không thuộc các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và vì thế người bị hại bởi tội phạm này chắc chắn không chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, đồng nghĩa với việc người bị hại phải lên tiếng về tội phạm bằng cách này hay cách khác. Thế nhưng trong toàn bộ hồ sơ của vụ án liên quan đến ông Dương Tiến không có bất cứ dấu vết nào dù là nhỏ nhất cho thấy có người bị hại như đơn tố cáo, lời khai, của người bị hại tại Cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của ông Dương Tiến. Do đó hoàn toàn không có việc ông Dương Tiến phạm tội. Nói cách khác, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng xét xử ông Dương Tiến là hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội và bản án mà Tòa án này tuyên đối với ông Dương Tiến là bản án trái pháp luật!

Với lý do trên, tôi trân trọng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên ông Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, đình chỉ vụ án đối với ông Dương Tiến và phục hồi cho ông Dương Tiến mọi quyền và lợi ích hợp pháp.

Thưa Hội đồng xét xử,

Như vậy, về nguyên tắc, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ của tôi là ông Dương Tiến do trong vụ án không có người bị hại. Thế nhưng để những quyền cơ bản của công dân quy định tại Điều 69 (Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin…), Điều 71 (Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm), Điều 74 (Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước… hoặc bất cứ cá nhân nào) của Hiến pháp được bảo vệ tuyệt đối, tôi thấy cần thiết phải chứng minh Tòa án thành phố Đà Nẵng đã cố tình kết án oan công dân Dương Tiến như thế nào.

Tại Bản án trong phần “Xét thấy”, Tòa án thành phố Đà Nẵng luận tội ông Dương Tiến như sau: “Đối với Dương Tiến, với tư cách là phóng viên, trưởng Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội, bị cáo đã lợi dụng quyền tự do báo chí để viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng. Dương Tiến cũng là một trong những người cung cấp tài liệu cho Đinh Công Sắt tán phát thông qua việc gọi Đinh Công Sắt ra Hà Nội vào ngày 14/5/2007 để hỗ trợ tiền và đưa cho Sắt 02 công văn số 73,77 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, bảo Sắt photo và mang 02 tài liệu này về tán phát tại Đà Nẵng. Ngoài những hành vi trên, từ ngày 17/5/2007 đến ngày 19/5/2007, Dương Tiến còn trực tiếp vào Đà Nẵng để theo dõi, nắm tình hình dư luận về bài báo của Dương Tiến viết về Đà Nẵng cũng như kết quả tán phát công văn số 73,77 của Đinh Công Sắt. Tại đây, Dương Tiến còn tiếp tục cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo. Qua xem xét hành vi phạm tội của Dương Tiến, Hội đồng xét xử thấy rằng Dương Tiến cũng là một trong những bị cáo đã thực hiện tội phạm một cách tích cực, đặc biệt là việc trực tiếp cung cấp công văn 73,77 để Đinh Công Sắt tán phát”.

Như vậy, để có thể tuyên ông Dương Tiến phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Điều 258 Bộ Luật hình sự, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quy cho ông Dương Tiến ba hành vi sau:

1. Viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng” (bài “Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt?” đăng trên báo CATPHCM ngày 10/5/2007).

2. Đưa cho Đinh Công Sắt 02 công văn số 73,77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, bảo Sắt photo và mang 02 tài liệu này về tán phát tại Đà Nẵng.

3. Cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung
Thế nhưng cả ba hành vi này hoặc là bịa đặt, không có trong Cáo trạng hoặc không thuộc hành vi bị pháp luật cấm nên không thể là chứng cứ kết tội ông Dương Tiến như trình bày sau đây.

1. Hành vi “viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng” là bịa đặt, không có trong Cáo trạng.

Để xác định ông Dương Tiến có hay không có hành vi viết báo không đúng sự thật nhất thiết phải căn cứ vào Luật Báo chí. Thực vậy, Khoản 2 Điều 9 Luật Báo chí quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền phát biểu bằng văn bản về những nội dung đề cập trên báo chí khi có căn cứ cho rằng báo chí đã thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình. Cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân đối với thông tin đã được đăng, phát sóng trên báo chí của mình”. Thế nhưng đã không có bất cứ tổ chức, cá nhân nào khiếu nại, yêu cầu báo Công an thành phố Hồ Chí Minh và cá nhân ông Dương Tiến cải chính, xin lỗi sau khi bài “Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt?” được đăng, đồng nghĩa bài báo này của ông Dương Tiến không có thông tin sai sự thật. Báo cáo số 200/BC/PX 21 ngày 26/11/2009 của Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh gửi Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân dân tối cao khẳng định:

“Trên báo CATP năm 2007, ông Dương Tiến chỉ viết 1 bài báo về Đà Nẵng tựa đề “Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt?” đăng trên báo CATP ngày 10/5/2007, nội dung phản ánh một số bức xúc của người dân Đà Nẵng trong đền bù và giải phóng mặt bằng. Cuối bài viết, với tinh thần khách quan và xây dựng, tác giả cũng đề nghị các cơ quan chức năng làm rõ để xử lý nghiêm những cá nhân sai phạm và những ai lợi dụng khiếu nại tố cáo không đúng sự thật. Từ khi bài báo đăng cho tới nay, báo CATP không hề nhận được bất cứ công văn, đơn thư của cơ quan, cá nhân nào ở TP Đà Nẵng khiếu nại về nội dung bài viết trên. Các cơ quan chỉ đạo và quản lý nhà nước về báo chí như Ban tuyên giáo trung ương, Bộ Thông tin – Truyền thông, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Sở Thông tin – Truyền thông TP Hồ Chí Minh cũng không hề có ý kiến phê bình hoặc lưu ý rút kinh nghiệm đối với bài báo trên. Trong bản Cáo trạng số 20/CT-KSĐT-TA ngày 18/6/2009 của Viện KSND TP Đà Nẵng đề nghị truy tố ông Dương Tiến cũng không hề đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, trong bản án số 16/2009/HSST ngày 7/8/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng lại ghi: “Đối với Dương Tiến, với tư cách là phóng viên, trưởng Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội, bị cáo đã lợi dụng quyền tự do báo chí để viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng”. Việc Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng kết luận như trên theo báo CATP là không có cơ sở thực tế và pháp lý”.

Để cho hết nhẽ, giả thiết báo chí thông tin sai sự thật và tổ chức, cá nhân có liên quan đã yêu cầu báo chí cải chính mà cơ quan báo chí vẫn không cải chính thì vụ việc sẽ được giải quyết bằng biện pháp hành chính, dân sự chứ không thể bằng biện pháp hình sự và đây chính là biện pháp cần thiết để bảo vệ Quyền tự do báo chí đã được Hiến pháp quy định. Thực vậy, Khoản 4 Điều 9 Luật Báo chí quy định: “Trong trường hợp cơ quan báo chí không cải chính, xin lỗi hoặc cải chính, xin lỗi không đúng các quy định của Luật này, không đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì tổ chức, cá nhân đó có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án”.

Như vậy, bằng việc bịa đặt cho ông Dương Tiến hành vi “viết bài không đúng sự thật…”, Tòa án thành phố Đà Nẵng đã có hành vi “vu khống” ông Dương Tiến và không những thế, còn xâm phạm trắng trợn tố tụng hình sự khi lấy hành vi bịa đặt này làm căn cứ để xét xử ông Dương Tiến. Thực vậy, Theo Điểm a Khoản 1 Điều 166 BLTTHS (Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng), Điểm 2 Điều 178 BLTTHS (Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ Tội danh và điều khoản của BLHS mà Viện kiểm sát áp dụng đối với hành vi của bị cáo) và Điểm a Khoản 1 Điều 179 BLTTHS (Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được) thì đối tượng xét xử của Tòa án là hành vi phạm tội được Viện kiểm sát nêu trong Cáo trạng và Tòa án có quyền trả hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung hành vi mà theo Tòa án có dấu hiệu phạm tội. Nói cách khác, Tòa án không có quyền xét xử hành vi mà Viện Kiểm sát không đề nghị. Chính vì vậy, Điều 196 BLTTHS quy định giới hạn của việc xét xử như sau: “Toà chỉ xét xử những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát truy tố”.

Việc ông Dương Tiến viết bài đăng trên báo Công an TP Hồ Chí Minh được Cáo trạng đề cập như sau: “Tiến đã gặp Sắt và Thăng nhiều lần để nắm tình hình phản ứng của dư luận nhân dân thành phố khi đọc bài báo do Tiến viết về khiếu kiện ở Đà Nẵng đăng trên báo Công an TP Hồ Chí Minh số ra ngày 10/5/2007”. Do đó, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng đưa hành vi “viết bài không đúng sự thật” không hề có trong Cáo trạng ra xét xử là vi phạm Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử, đồng nghĩa Tòa án này cố ý “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” đối với ông Dương Tiến.

Đến đây một câu hỏi được đặt ra là tại sao Tòa án thành phố Đà Nẵng lại liều lĩnh và trắng trợn bịa đặt cho ông Dương Tiến hành vi “viết bài không đúng sự thật…”? Câu trả lời chỉ có thể là do áp lực phải kết tội ông Dương Tiến cho bằng được nhưng nếu chỉ với hành vi liên quan đến hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng thì không thể quy ông Tiến vào hành vi “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ” (các quyền này bao gồm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội…) nên Tòa án thành phố Đà Nẵng đành nhắm mắt làm liều, có bịa đặt như vậy thì mới quy được ông Tiến vào hành vi “lợi dụng quyền tự do báo chí” và trên cơ sở đó mới hòng khép ông Tiến vào tội danh “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ…”! Thực vậy, tại bản án trong phần luận tội ông Tiến như trên đã nêu, hành vi “viết bài không đúng sự thật…” được đính với “Lợi dụng quyền tự do báo chí” còn hành vi liên quan đến hai công văn số 73 và 77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng không thấy được đính với “Lợi dụng” bất cứ quyền tự do, dân chủ cụ thể nào!

2. Hai công văn số 73 và 77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng không có nội dung sai sự thật và không phải tài liệu bị pháp luật cấm lưu hành.

Điều hiển nhiên là để có thể kết luận việc ông Dương Tiến đưa 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng cho Đinh Công Sắt để rồi Sắt photo và tán phát là hành vi “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” thì Tòa án thành phố Đà Nẵng bẳt buộc phải chứng minh hai tài liệu này có nội dung sai sự thật vì chỉ có sai sự thật thì việc lưu hành hai tài liệu này mới có khả năng xâm phạm quyền, lợi ích của người khác. Thế nhưng tại Bản án Tòa án thành phố Đà Nẵng đã không hề đả động đến nội dung của 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng cũng như không có bất cứ kết luận “vo” nào là hai tài liệu này có nội dung sai sự thật. Do đó, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng kết án ông Dương Tiến là hoàn toàn không có cơ sở và vì vậy là hành vi cố ý “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” đối với ông Dương Tiến.

Mặc dầu vậy, một khi 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng đã được Tòa án thành phố Đà Nẵng đặt lên bàn xử án thì không thể không làm rõ nội dung hai tài liệu này là đúng hay sai sự thật. Đó là Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 gửi Lãnh đạo VKSNDTC và Công văn số 77/KSĐT/KT ngày 01/11/2000 gửi Đ/c Viện trưởng VKSNDTC và Đ/c Phan Diễn, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, cả hai đều đề cập đến việc ông Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng (hiện là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội) đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty hợp doanh xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng, Chỉ huy phó Công trình đường Bắc Nam. Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: “Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh – Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Nam… Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban Kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông, Nguyễn Cưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lý quy buộc số tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Cưng mà không điều tra, xử lý đối tượng nhận tiền thì sẽ oan cho người đưa tiền, trong khi đó người đòi hối lộ thì vô can, dư luận nhân dân không đồng tình và vụ án không được giải quyết triệt để và thỏa đáng”.

Do không có bất cứ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào cho đến thời điểm diễn ra phiên tòa phúc thẩm này kết luận 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng có nội dung sai sự thật cũng như không có bất kỳ dấu “Mật” nào đóng trên hai công văn này nên hai công văn này tuyệt nhiên không phải là tài liệu bị pháp luật cấm lưu hành. Vả lại ông Dương Tiến không công tác tại VKSND TP Đà Nẵng, báo Công an thành phố Hồ Chí Minh nơi ông công tác không phải là địa chỉ đến của 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng nên càng không có ràng buộc nào đối với ông Dương Tiến trong việc lưu hành hai công này. Do đó việc ông Dương Tiến đưa cho Đinh Công Sắt xem và việc Sắt photo và lưu hành hai công văn này không có gì là trái pháp luật.

Mặc dầu vậy, vẫn phải khẳng định rằng Tòa án thành phố Đà Nẵng đã vu khống ông Dương Tiến với kết luận ông Dương Tiến “bảo” Đinh Công Sắt photo và mang 02 tài liệu này về tán phát tại Đà Nẵng. Chứng cứ là tại hai phiên toà sơ thẩm trước, ngày 22-23/9/2008 và ngày 6-7/8/2009, Đinh Công Sắt luôn khẳng định việc photo và phát tán hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát thành phố Đà Nẵng là do Sắt tự ý làm, không bị ai xúi giục.

Ngoài ra, Tòa án thành phố Đà Nẵng đã tự mâu thuẫn khi kết luận như vậy. Tại Bản án có ghi: “Nguyễn Trịnh Thăng do quen biết với Dương Tiến (Trung tá, Trưởng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội) nên Linh đã bảo Thăng dẫn Sắt đến gặp Dương Tiến để đưa đơn. Thăng đồng ý và trực tiếp dẫn Sắt đến Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh ở 175 Nguyễn Thái Học – Hà Nội để gặp Tiến. Tại đây Sắt đưa Dương Tiến đơn tố cáo nêu trên do Sắt ký tên”. Như vậy, Đinh Công Sắt là người chủ động tố cáo ông Nguyễn Bá Thanh với nhà báo Dương Tiến như Tòa án thành phố Đà Nẵng thừa nhận thì không thể có chuyện ngược lại là ông Dương Tiến “bảo” Sắt photo và phát tán hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát thành phố Đà Nẵng, tức biến Đinh Công Sắt thành người thụ động trong việc tố cáo ông Nguyễn Bá Thanh!

Nhân đây cần khẳng định rằng chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải là việc riêng của chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng nghĩa hoạt động của các cơ quan này phải chịu sự giám sát chặt chẽ của người dân và của xã hội thông qua báo chí. Để nói việc ông Dương Tiến đưa cho Đinh Công Sắt xem hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát thành phố Đà Nẵng là hoàn toàn chính đáng và cần thiết, không chỉ trao đổi thông tin để chống tham nhũng có hiệu quả hơn mà còn để giám sát chính quyền nói chung, cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng trong đấu tranh chống tham nhũng!

Điều đáng lưu ý là ngoài hai công văn 73,77 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng, theo ông Trần Văn Thanh, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Công an tại Bản trình bày ngày 03/11/2008 làm theo yêu cầu của tổ công tác liên ngành kèm theo công văn 3429/VKSTC-V2 ngày 30/10/2008 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, còn có nhiều văn bản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác xác nhận các đơn tố cáo về hành vi tham nhũng của ông Nguyễn Bá Thanh của một số công dân thành phố Đà Nẵng (trong đó có đơn tố cáo của Đinh Công Sắt) là có cơ sở và đề xuất xử lý, như:

Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng đề xuất xử lý theo quy định của pháp luật.

Kết luận thanh tra số 524/KLTT-BCA (V24) ngày 06/6/2008 của Bộ Công an xác định có đủ căn cứ để khởi tố vụ án và bị can và việc Công an thành phố Đà Nẵng không khởi tố để điều tra là vi phạm Điều 103, 104 BLTTHS, có dấu hiệu vi phạm Điều 294 BLHS.

Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS thì “Tội nhận hối lộ” là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 23 BLHS là 20 năm. Do hành vi tham nhũng được nêu tại hai công văn 73 và 77 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng và các văn bản nêu trên của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng và của Bộ Công an chưa được khởi tố để điều tra theo luật định nên mọi tố cáo về hành vi tham nhũng này vẫn luôn có giá trị và cần được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiếp tục giải quyết.

3. Hành vi “cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo” là bịa đặt, không có trong Cáo trạng.

Trước hết, Tòa án thành phố Đà Nẵng hoàn toàn khuất tất khi nói ông Trần Đình Bá có bài viết với những nội dung không đúng sự thật nhưng lại không nêu ra được bài viết đó có tiêu đề gì. Trên thực tế, bài viết của ông Trần Đình Bá có tiêu đề “Phải chăng hàng loạt những tố cáo về ông Nguyễn Bá Thanh là không có cơ sở” và cho đến thời điểm này không có bất cứ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào kết luận bài viết của ông Trần Đình Bá có nội dung sai sự thật, đồng nghĩa Tòa án thành phố Đà Nẵng đã có hành vi bịa dặt. Điều đáng lưu ý là trong Cáo trạng và ngay trong phần “Nhận thấy” của Bản án, không hề có chi tiết “Dương Tiến còn tiếp tục cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo”. Do đó, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng đưa hành vi vừa bịa đặt vừa không hề có này trong Cáo trạng ra xét xử để kết án ông Dương Tiến không những vi phạm Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử mà còn là hành vi cố ý “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” đối với ông Dương Tiến và “vu khống” đối với ông Trần Đình Bá!

Thưa Hội đồng xét xử,

Không nghi ngờ gì nữa, bằng việc xâm phạm trắng trợn tố tụng hình sự và bịa đặt chứng cứ để kết tội ông Dương Tiến thể hiện tại Bản án hình sự số 16/2009/HSST ngày 6-7/8/2009, Tòa án thành phố Đà Nẵng là điển hình xâm phạm hoạt động tư pháp, làm oan người vô tội.

Vì vậy, tôi trân trọng đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên ông Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, đình chỉ vụ án đối với ông Dương Tiến và phục hồi cho ông Dương Tiến mọi quyền và lợi ích hợp pháp.

2. Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với các thành viên Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa ngày 6-7/8/2009 về “Tội truy cứu trách trách nhiệm hình sự người không có tội” quy định tại Điều 295 Bộ Luật hình sự.

Tôi chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử và tất cả mọi người có mặt tại phiên tòa này đã chú ý lắng nghe.

Người bào chữa
LS NTDH
24 Điện Biên Phủ – Hà Nội
ĐT: 04.39902269, 0983345392.