„Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm“
Từ thuở xa xưa con người tin theo chu kỳ hằng năm 25.12 là ngày mặt trời trở lại vòng luân chuyển. Người Ai Cập với nền văn hóa Isis tin là sinh nhật của Horu vào ngày này, người Ấn Độ mừng Thần Ánh Sáng. Người Roma bắt đầu lễ kính thần Mặt Trời Sarturnalien và thần Thổ Tinh Saturn, người Germanen từ vùng Bắc Đức đến các nước Bắc Âu cử hành lễ "Giữa Đông" (Mittwinterfest) hay Julfest. Người Roma cũng như Á Châu hay Ai Cập đều tổ chức những ngày lễ hội dân gian khác nhau. Về niên lịch và thánh kinh không ghi rõ ngày nào Thiên Chúa xuống thế làm người, bởi vậy ngày Chúa giáng sinh có nhiều khác biệt, Cơ Đốc (Ki Tô) giáo dựa theo lịch Gregory thì chọn ngày 7 tháng Giêng.
Từ năm 353, thời La Mã Constantino, chọn 25.12 là lễ Gíáng sinh và năm 354, Đức Giáo Hoàng thứ 26 là Liberius (trị vì từ 17.5.352 đến 24.9.366) Ngài chính thức mừng lễ Giáng sinh vào ngày 25.12. Công đồng Konstantinopel quyết định công khai vào năm 381. Dựa vào lời kinh Cựu ước đã loan báo Đấng cứu độ là "Mặt Trời Công Chính" (Mal 3,20), Chúa Giêsu tự cho mình là "Ánh sáng trần gian" (Ga 8,12), là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người" (Ga 1,9) đã đến trần gian. Ngày Giáng sinh của Chúa là lễ "Thần mặt trời bách chiến bách thắng". Người Kitô cũng muốn loan báo cho người khác biết: Mặt trời thì tốt, và chúng tôi cũng vui như các bạn về chiến thắng của mặt trời. Nhưng mà mặt trời tự nó không có ánh sáng, nó chỉ có ánh sáng là do Thiên Chúa tạo dựng và ban cho. Qua đó mặt trời báo cho chúng ta ánh sáng thật, ánh sáng từ Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của mọi loài thụ tạo. Ngài là nguồn của tất cả ánh sáng, không như mặt trời chỉ là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, vì nó chỉ là một vật không có sự sống nếu không có Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của ngày lễ giáng sinh. Ngày sinh của Chúa Kitô, ngày mặt trời đổi vòng luân chuyển trong mùa đông của lịch sử thế giới, ngày cho chúng ta tin tưởng trong những bước thăng trầm của lịch sử quyền lực của tối tăm. Ngay từ thời Cựu ước, nhân loại đã mong đợi Đấng Cứu Thế ra đời. Đức Chúa Cha đã để con một của ngài là Chúa Giêsu Kitô xuống thế làm người tại Belem cách đây hơn 2000 năm. Ngài đến trong mầu nhiệm giáng sinh của Giáo hội. Ngài đến để xét xử kẻ sống và kẻ chết, ban cho chúng ta những ân sủng.
Vòng hoa Mùa vọng
Mùa Giáng sinh bắt đầu với 4 tuần mùa vọng từ ngày Chúa nhật Adventsonntag ngày 29 cuối tháng 11 chấm dứt vào đêm 24.12 Heiligen Abend. Danh từ Mùa Vọng bắt nguồn từ tiếng La Tinh "Adventus"/Ankunft", có nghĩa là đến. Theo tài liệu, mùa vọng đầu tiên được tổ chức tại thành phố Ravenna Ý vào thế kỷ thứ 5. Đến thế kỷ thứ 6 thời Đức giáo hoàng Gregor, mùa vọng có 6 Chúa nhật đến lễ ba Vua, nhưng đến thời Đức Giáo hoàng Pius V, mùa vọng chỉ còn 4 Chúa nhật.
Mỗi quốc gia có phong tục khác nhau. Ở Đức, Chúa nhật Mùa vọng thứ nhất (Adventsonntag) thường treo giữa nhà Thờ, hoặc để trên bàn cái vòng hoa gọi là vòng hoa mùa vọng (Adventkranz). Theo tài liệu thì Mục sư Tin lành Johann Heinrich Wichern (1808-†1881) ở Hamburg giúp cho các em mồ côi, lang thang ngoài đường phố ăn xin, ông sửa lại căn nhà của mình gọi là „Rauhe Haus/Roughens house“ đem nhiều em từ ngoài đường trong mùa đông giá lạnh về nuôi dưỡng, cho học nghề, trở thành thợ làm giầy, thợ sơn nhà cửa, thợ may hoặc làm vườn. Từ đó các em thoát khỏi kiếp ăn xin có thể tự lập được,
Lần đầu tiên mùa Vọng ở Đức năm 1839 sử dụng „Adventkranz“ trong phòng lớn nhà „Rauhe Haus“ của mục sư Johann, mỗi ngày thắp một cây nến, trên khung gỗ hình tròn có 4 cây nến lớn màu đỏ, và 19 cây nến nhỏ. Cho đến đêm Giáng sinh căn phòng rực sáng, ánh sáng nến tượng trưng cho Chúa Kitô, ánh sáng trần gian. Những năm sau người ta trang trí thêm những nhánh thông xanh, từ năm 1860 có sự thay đổi vòng hoa hình tròn là những nhánh thông xanh, 23 cây nến gom lại còn 4 cây tượng trưng cho 4 tuần cho sự chờ đợi ngày Chúa ra đời. Vì thế là vòng hoa mùa vọng ra đời lần đầu tiên được treo trong nhà thờ ở Köln năm 1925 cho đến năm 1935 phổ biến rộng rãi khắp nơi. Vòng hoa đường kính lớn nhỏ khác nhau, phần trong làm bằng rơm khô, chung quanh bọc lá thông xanh tượng trưng cho sự sống muôn đời. Nhiều gia đình gắn thêm trái hồ đào trên vòng hoa tượng trưng cho sự sống lại và những hoa trái tiêu biểu cho lương thực dồi dào của đời sống Kito hữu. Bốn cây nến này được lần lượt thắp lên mỗi tuần ý nghiã hướng chúng ta về với ánh sáng tránh xa tội lỗi.. Mùa vọng nói lên niềm vui như Thánh Phao lô kêu gọi: Hãy vui lên... vì Chúa đang đến!
Từ đầu tháng 12, tại Ðức có chợ (Weihnachtsmarkt/ Chriskindlmarkt) không có hoa mai, hoa anh đào như chợ tết Việt Nam, phần lớn trong mùa Gíang sinh bán thông xanh cao đến 2m50, (Weihnachtsbaum/ Christmas tree), nhiều loại bánh, trái cây, hàng thủ công nghệ, trái châu để trang điểm cho cây thông, đặc biệt bán rượu nho đỏ „Christkindl Glühwein“ hâm nóng bốc khói mùi thơm ngon. Về chiều 16 giờ trời đã tối, chợ rực rỡ ánh đèn màu rất đẹp, các cửa hàng bán qùa đều có người gói hàng rất nghệ thuật, đẹp mắt miễn phí cho khách hàng
Hình ảnh quen thuộc nhất trong mùa Giáng sinh là ông già Noel trẻ em rất thích và mong đợi. Ông mặc quần áo đỏ, đội mũ đỏ kiểu xứ lạnh, đi giầy đen, tóc bạc phơ và râu trắng như tuyết. Theo truyền thuyết, ông già Noel xuất hiện từ thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch. Ông chào đời tại quận Patara thuộc phần đất của Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi được phong thánh mới có tên là Nikolaus. Ngày 6 tháng 12 đi phát qùa cho trẻ em, nhưng phải phân biệt Nikolaus và Weihnachtsmann/ Santa Claus. Thế kỷ thứ 10 đời nữ Hoàng Thephanu gốc Hy Lạp, là vợ Hoàng Ðế Otto II của Ðức để nhớ thánh Nikolaus nên từ năm 1555 tại Ðức nguời ta may áo quần màu đỏ, đội tóc trắng, mang râu, giả làm Nikolaus, hình ảnh Nikolaus xuất hiện trở lại với ý nghiã mang tình thương đến với mọi người. Weihnachtsmann xuất hiện từ năm 1933 do quảng cáo của hãng Coca Cola. Hình ấy được thấy trên màn ảnh Tivi suốt muà Giáng sinh.
Ông già Noel theo tiếng Pháp là Père de Noel, tiếng Anh là Nicholas, tiếng Hòa-Lan là Sinterklass. Theo tài liệu, trước khi được phong thánh, ông Nikolaus là người giàu có lòng nhân từ, đêm Giáng sinh ông được Thiên chúa mặc khải, đem hết của cải riêng mình ban phát cho những người nghèo khổ và trẻ con. Ông biến những giấc mơ của họ thành sự thực, bằng cách mua quà bánh để biếu những kẻ nghèo khổ, mang lại cho họ những sung sướng bất ngờ.
Có tài liệu khác cho biết ông già Noel được phong Giám mục vào thế-kỷ thứ 3 sau Tây lịch. Khi được phong thánh, Nikolaus trở thành người đỡ đầu của các thương nhân, thủy thủ và trẻ con. Ông qua đời vào ngày 6/12 không nhớ năm. Ngày 6/12 hàng năm để tưởng nhớ lại hình ảnh người đạo đức, giàu lòng nhân từ bác ái, hình ảnh người mặc áo màu đỏ của Nikolaus thuở nào, đến từng nhà có trẻ con thăm viếng, chia bánh kẹo trong đêm Giáng sinh. Ông già Noel trở lại trần gian, theo đường ống khói lò sưởi vào mỗi gia đình, để đồng tiền hay bánh kẹo vào trong chiếc vớ hay chiếc giày cho trẻ con treo gần giường ngủ hay lò sưởi, đem lại giấc mơ đẹp với tuổi thơ. Bởi thế Cha mẹ thường mua qùa bỏ vào đôi vớ để cạnh lò sưởi, lúc trẻ con thức dậy vui mừng với món quà của ông già Noel tặng. Phong tục này khuyến khích trẻ em nên làm điều thiện để được ông già Noel tặng quà
Ðêm Thánh / Heiligabend /silent night
Chúa sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn, để lại cho nhân loại lịch sử suy niệm, từ đó hàng năm tín đồ Thiên Chúa Giáo cử hành lễ Giáng sinh rất long trọng khắp nơi trên thế giới, để tưởng nhớ ngày Chúa ra đời ở thành Bêlem/Bethelem. Sự nhập thế của Chúa Hài đồng có những hiện tượng lạ theo sự hướng dẫn của ngôi sao kỳ diệu, Vua các vùng lân cận đã tìm đến là ngày lễ ba Vua mùng 6 tháng Giêng. Tín đồ trên thế giới đều thờ kính con một của Chúa Cha, xuống thế làm người và chịu chết trên cây Thánh giá. Thánh lễ Giáng sinh đêm 24 tháng 12 hàng năm có vô số những bài ca, người ta còn nhắc nhở đến những bài thánh ca bất hủ, trở thành những bài ca quốc tế, dịch ra nhiều thứ tiếng.
Jingle Bells (Chuông Reo Vang)
Jingle Bells có lẽ là nhạc phẩm nhiều người biết, không thể thiếu được trong mùa lễ Giáng sinh. Nhạc phẩm nầy được nhạc sĩ Nguyễn Duy đặt lời Việt trở thành một bài hát với tiếng lục lạc leng keng trên cổ ngựa, tiếng chuông giáo đường vang vang.
"Một trời sáng trong an lành, và một vùng tuyết ôm cây cành, một ngày sáng bao la tình, một nỗi sướg vui hồi sinh. Mừng ngày Chúa sinh ra đời, người người đó đây vui cười, rộn ràng hỉ hoan chào đón Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh cho đời. Chuông mênh mông, chuông mênh mông, chuông giáo đường ấm cúng. Chuông thanh thanh, chuông thanh thanh, tiếng chuông xe chạy nhanh (ớ). Chuông vang vang, chuông vang vang, chuông báo mừng đêm thánh. Chuông ngân ngân, chuông ngân ngân, ôi tiếng chuông trong tim mình."
Bài thánh ca "Đêm Thánh Vô Cùng" tác giả là Cha xứ Joseph Mohr (1792 † 1848) viết lời và nhạc do thầy giáo Franz Xaver Gruber (1787-†1863) soạn. Lần đầu tiên bản thánh ca này được hát vào ngày 24.12.1818. Cha Mohr sinh tại Salzburg Áo. Sau khi chịu chức linh mục năm 1815, cha về làm việc tại nhà thờ St. Nikolaus Oberndorf Đức. Bài thánh ca Weihnachtslied "'Stille Nacht! Heilige Nacht! Silent Night/ Đêm Thánh Vô Cùng" ra đời và được hợp ca với một cây đàn nhỏ phụ họa, đó là bài thánh ca bất hủ.
„ Đêm thánh vô cùng giây phút tưng bừng. Đất với trời se chữ đồng; Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ. Canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa, ơn châu báu không bờ bến, Biết tìm kiếm của chị đến. Ôi Chúa Thiên đàng cam mến cơ hàn, nhấp chén phiền vương phong trần,Than ôi Chúa thương người đến quên mình bỏ vô chốn quê nhà lúc sinh thành. Ai ham sống trong lạc thú. Nhớ rằng chuá đang đền bù. Tinh tú trên trời. Sông nuí trên đời với Thánh Thần mau kết lời, Cao rao Hóa công đã khéo an bài. Sai con hiến thân mong cứu nhân loại. Hang chiên máng rêu tạm trú bốn bề tuyết sương mịt mù „
Đêm 24/12 vui mừng ngày Chúa ra đời. Người Việt Nam mừng Giáng sinh như người Tây phương, sau khi dự thánh lễ, gia đình công giáo Việt Nam vẫn giữ tục ăn "Réveillon" nửa đêm. Thời tiết ở Việt Nam ấm áp nên Thánh lễ đêm 24 đông người tham dự, người không theo Thiên chúa cũng ra đường vui chơi, từ nhà Thờ, trên phố đông người „dập dìu tài tử giai nhân, ngưạ xe như nước áo quần như nêm“.
Ở Huế khu Phú Cam, nhà Thờ cao với ngôi sao lộng lẫy, hang đá sáng trưng tỏa ra từ những cây nến trắng. Đà Nẵng khu Thanh Bồ, Đức Lợi phần lớn người Bắc di cư tổ chức Giáng sinh rất lớn. Thánh lễ cử hành trước nhà Thờ Chánh tòa đường Độc Lập rất trang nghiêm. Sài Gòn từ Vương cung Thánh Đường nhà thờ Đức Bà đến Dòng Chúa Cứu Thế, nơi nào cũng đông người tham dự. Ngày xưa (1975) thời chiến tranh trên lý thuyết hai bên đều ngưng bắn mừng Giáng sinh. Ở Đức đêm 24 là đêm của gia đình, đường phố vắng lặng dưới bầu trời lạnh buốt cùng tuyết trắng. Người Tây phương mừng Giáng sinh trong 3 ngày từ chiều 24 và ngày 25, 26 tháng 12, ngoại trừ Hy Lạp Griechenland/ Greece theo Cơ Đốc Giáo làm lễ Giáng sinh ngày 6 tháng giêng, ở Hy Lạp không có Nikolaus nhưng có Thánh Vassilius. Đêm mùng Một tết, Vassilius để qùa tặng trên giường ngủ cho trẻ em. Xứ Armenien/ Armenia thì lễ Giáng sinh ngày 18/19 tháng giêng.
Ở Đức ngày 24 làm việc buổi sáng, 14 giờ các siêu thị đóng cửa, hãng xưởng nghỉ việc, đường phố về chiều yên lặng cho đến tối silent night. Phần lớn miền nam Đức theo Thiên Chúa giáo, đi đâu cũng thấy nóc nhà thờ hình giống như củ hành, nhiều Giáo đường theo kiến trúc cổ, đồ sộ trải qua hàng ngàn năm Từ thế kỷ thứ 8. Người Ðức mừng lễ Giáng sinh vào tối 24 các nhà Thờ đều có thánh lễ, sau Thánh lễ họ về nhà gia đình vui chơi bên cây thông, hang đá nhấp nháy đèn màu, dưới gốc thông là những gói qùa để tặng nhau. Tiệc đêm Giáng sinh „Reveillon.“ theo truyền thống gia đình Đức thường ăn ngỗng quay, tiếng Đức gọi là „Weihnachtsgans“, họ ít ăn gà tây nướng như lễ Tạ ơn „Thanhsgiving“ của người Mỹ. Ngoài ra có các lọai bánh hình ngôi sao, các tượng Thiên thần, hình ông già Noel và những thứ bánh gọi là Weihnachtstollen, Weihnachtgebäck .. và rượu nho, giống như Tết của người Việt Nam phải có các loại mứt hạt dưa, bánh chưng, bánh tét…
Tuy nhiên ở vùng quê người Đức họ giữ tập quán, dù tuyết rơi giá lạnh nhưng nhà Thờ làm lễ lúc 22 giờ cho đến khuya, nhiều nhà không ăn tiệc nửa đêm, nhưng ngày 25 và 26 đại gia đình đoàn tụ trong những bữa tiệc không riêng gì ngỗng quay, còn những món khác do các bà khéo tay trổ tài trong dịp nầy. Những người lớn tuổi như ông bà nội, bà ngọai phát qùa cho các cháu (giống như tục „lì xì“ của người Việt trong dịp tết) sau đó mọi người trao quà cho nhau. Người Đức vui chơi tiệc tùng suốt ngày 25 và 26 thời gian nầy gặp nhau người ta thường chúc „Frohe Weihnachten und ein gutes Neues Jahr“ chúc mừng giáng sinh và năm mới tốt đẹp.. Người Đức trọng ngày Giáng sinh hơn tết, ngược lại người Việt trọng ngày mùng Một tết. Đó cũng là sự khác biệt về quan niệm sống giữa Đông phương và Tây phương.
Miền New England dân chúng ăn tiệc mừng Giáng Sinh theo người Anh. Trong bữa ăn "Réveillon" luôn luôn tổ chức trọng thể có một loại rượu đặc biệt, chế bằng nước trái cây ép với vài hương liệu Đông Phương như đinh hương đậu khấu và rượu nho. Thứ rượu đặc biệt trên phải hâm nóng, uống như rượu saké của Nhật. Người Island mùa Vọng từ ngày 12 đến 24, mỗi ngày thường bỏ những món quà nhỏ trong chiếc giày tượng trưng qùa của Nikolaus dành cho trẻ con. Chiều 24 bắt đầu bữa tiệc mừng Giáng Sinh, sau đó họ đi thăm nghiã trang mang đến những tràng hoa và đốt nến trên mộ phần người thân. Ở Ý Italy họ không dùng cây thông trang điểm cho mùa Giáng sinh, nhưng họ làm hang đá và ăn tiệc đêm 24. cho đến lễ Ba Vua 6.1, họ bỏ kẹo bánh vào chiếc vớ hay giày làm qùa cho trẻ con. Người Tây Ban Nha Spanien/Spain và Bồ Đồ Nha/Portugal chỉ tặng qùa vào lễ Ba vua. Hòa Lan Niederlande/Netherlands từ 6/12 hàng năm họ tổ chức rước lễ lớn ở hải cảng Amsterdame và trong đêm giao thừa, các gia đình mang ra đường đốt những cây thông (Christbäume) cùng với tiếng pháo tống cưụ nghinh tân. Vùng Đông âu giá lạnh như Schweden/Sweden mùa Giáng sinh cũng là ngày chí điểm (Sonnenwende/solstice) khởi điểm muà Đông và Jul-Fest. Chiều 24 sau 15 giờ trời sẩm tối, qùa tặng Giáng sinh là các con dê đực bằng rơm và lò sưởi họ đốt than củi từ 24.12 đến 6.1 chấm dứt Giáng sinh vào ngày 13 cũng là ngày Thánh Knut. Họ ném những cây thông qua cửa sổ; đó cũng là một phong tục.
Người Mỹ đoàn tụ gia đình ngày thứ năm cuối tháng 11 mừng Thanksgiving/ Danke schöne hàng năm, để tạ Thượng Đế, tạ ơn đời và ơn người cùng ân phúc của trời đất, trong đêm Giáng sinh mọi gia đình cũng tổ chức ăn uống, trao đổi qùa tặng cùng những lời chúc tốt đẹp.
Hạt Dẻ
Một dĩa đầy màu sắc với những hạt dẻ và bánh giáng sinh thì không thể thiếu trong bầu khí lễ Giáng sinh tại Đức. Những hạt dẻ Walnuesse được nhập cảng từ Pháp, Haselnuesse từ Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, từ Ba Tây có những hạt dẻ Paranuss ba cạnh. Dù là hạt dẻ nào chăng nữa, chúng có chung một đặc điểm, đó là chúng có vỏ cứng và nhân ngọt bùi. Những hạt dẻ cho chúng ta nhận ra biểu tượng: Chúa ban cho chúng ta đời sống, nhiều khi vỏ của đời sống thật cứng, nhưng muốn nếm được sự ngọt bùi bên trong của đời sống, mỗi người phải tự mở ra, phải bẻ chiếc vỏ cứng đó ra. Hạnh phúc thay ai có kềm để bẻ hột dẻ trong tay.
Bánh Stollen
Dù với tên gọi Stolle hay là Stollen có từ năm 1330, bánh này không thể thiếu trong các loại bánh của mùa giáng sinh. Hình thức của bánh ngày nay nhắc lại những trẻ nhỏ đã bị giết tại Bethlehem và cuốn trong khăn. Vì lý do này mà trong thời trung cổ người ta không cắt bánh trước ngày 28.12.
Lễ Hiển Linh
"Hiển linh" là ý nghĩa từ chữ Hy Lạp "Epiphanias", nói lên ý nghĩa sự hiển linh của Thiên Chúa. Lễ Chúa hiển linh là lễ lớn thứ hai trong mùa giáng sinh. Lễ Hiển Linh còn được gọi là lễ ba vua, lễ của ba nhà đạo sĩ hay ba nhà thông thái từ phương Đông đã theo ánh sao tìm đến thờ lạy Chúa. Ba nhà đạo sĩ: Caspar, Melchior và Balthasar vì đã trải qua một đoạn đường dài từ phương Đông đến Bethlehem nên được chọn làm bổn mạng của những người du hành. Hài cốt ba vua đã được chuyển từ Phương Đông đến Koeln năm 1163 và nhà nhờ chính toà tại Koeln đã được xây dựng để kính các ngài. Hài cốt các ngài đã trở thành động lực cho nhiều vở kịch về Ba Vua trong các xứ đạo và tu viện. Từ đó cũng phát sinh ra Sternsinger, những thanh thiếu niên hóa trang thành ba vua và đi hát từ nhà này sang nhà khác vào dịp lễ Ba Vua để quyên tiền cho các trẻ em nghèo trên thế giới.
Cây thông
Mùa đông giá lạnh, cây cối đều rụng lá trơ trọi đọng lại những cánh hoa tuyết trắng, chỉ có các loại thông cành lá vẫn còn xanh đẹp. Để có sự hoà hợp con người và thiên nhiên, hơn 500 năm trước trong mùa Giáng sinh, người ta dùng thông làm cây Christbaum, thông xanh tươi, có mùi thơm màu xanh biểu tượng cho sự sống. Nến mang đến ánh sáng hy vọng. Lần đầu tiên ở Đức năm 1419 trước tiệm bánh ở Freiburg dựng cây thông trên cành treo nhiều trái cây, bánh cho tới ngày Tết trẻ em có thể lấy ăn. Cuối thế kỷ thứ 16 cây thông được trang trí trong phòng khách treo nhiều trái cây, kẹo bánh. Cho đến năm 1730 trên cây thông có thêm những cây nến, năm 1830 treo thêm những trái châu „Christbaumkugeln“.
Thành phố Berlin năm 1785, thủ đô Wien năm 1816 đã dựng những cây thông trong mùa Giáng sinh. Thế kỷ thứ 18 cây thông càng được phổ biến rộng rãi khắp nơi, bắt đầu năm 1819 ở nhà trắng „Weißen Haus“ Hoa Kỳ đã có cây thông trong mùa Giáng sinh tươi đẹp rực rỡ ánh đèn màu, cho đến thế kỷ thứ 19 được thế giới biết đến. Sau nầy người ta còn sử dụng cây có lá xanh đỏ, trang điểm cho đẹp mắt.
Hang đá và máng cỏ. Die Weihnachtskrippe
Hình thức diễn tả cảnh Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ bắt nguồn từ những vở kịch tôn giáo từ thời Trung Cổ. Ngay từ những thế kỷ đầu sau khi Chúa giáng sinh có những vở kịch về hang đá, nhưng sau đó bị đi vào quên lãng. Thánh Phanxicô Assisi trong lần dâng lễ Giáng sinh ngày 24.12.1223 ở gần Roma, ngài đã làm cái máng cỏ với các tượng Chúa Hài đồng, tượng Đức Mẹ Maria, chung quanh có những con lừa, các tượng Ba Vua, một số Thiên thần, thánh Giuse. Trên mái nhà có ánh sáng từ một ngôi sao.
Những khu nhà thờ ở Đức dù có truyền thống lâu đời, nhưng họ không xây hang đá như những nhà thờ ở Việt Nam. Năm 1807 thành phố München/ Munich làm hang đá, chưng bày chỉ trong ngày lễ Giáng sinh, để mọi người đều hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân loại tránh bớt chiến tranh nghèo đói và độc tài.
„Hát khen mừng Chúa giáng sinh ra đời Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa. Trong hang Belem ánh sáng tỏa lan tưng bừng nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang lừng. Ðàn hát (réo rắt tiếng hát) xướng ca dư âm vang xa. Ðây Chuá Thiên Toà Giáng sinh vì ta..Người hỡi (hãy kíp bước tới) Đến xem nơi hang Be Lem). Ôi Chúa Giáng sinh khó khăn thấp hèn. Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn gian trần. Người đem ơn phúc xuống cho muôn dân lầm than...“
Bí ẩn về ngôi sao Bethlehem
Các ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rực rỡ đủ mầu sắc trong mùa Giáng sinh, các nhà thờ đều có treo vô số ngôi sao 5 cánh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Trong tất cả các tranh ảnh Chúa giáng sinh, trên bầu trời bao giờ cũng có một ngôi sao sáng, rực rỡ, thánh kinh gọi đó là ngôi sao Bethlehem đã dẫn đường cho Ba Vua tới hang đá. Ngôi sao này còn có tên là ngôi sao giáng sinh, một supernova, từ lâu đã là mối tranh cãi của các nhà thiên văn học. Mới đây Nibel Henbest, một khoa học người Anh đã dựa vào sự chuyển động của quỹ đạo trong thái dương hệ, để giải tỏa câu hỏi tại sao chỉ có Ba Vua nhìn thấy ngội sao đó, trong khi lịch sử thiên văn không ghi nhận được. Theo Nibel thì vào năm 1604, nhà toán học Johannes Kepler đã tính được vị trí các hành tinh vào thời Chúa giáng sinh, cũng tìm được sự giao hội đặc biệt của các chòm sao trong nhóm Song Ngư vào năm thứ 7 trước tây lịch, có nghĩa là sao Mộc và sao Hỏa, biểu tượng của người Do Thái gặp nhau trên bầu trời nhưng vẫn cách nhau một khoảng gần bằng đường kính của mặt trăng. Vài năm sau đó một sự hội ngộ khác lại diễn ra vào tháng 8 năm 3 trước tây linh, Mộc tinh tiến gần sao Vệ Nữ là một ngôi sao sáng. Ngày 17-6-2 trước tây lịch, hai sao trên lại gặp nhau nhưng không va chạm, như tạo thành một ngôi sao lạ, sáng chói khắp miền Trung Đông mà thánh kinh đã gọi là ngôi sao Bethlehem. Ngoài ra với người Ky tô giáo xưa thì ngôi sao Vệ Nữ, tức là sao Hôm mọc trước bình minh, được coi là biểu tượng của Đấng Cứu thế, còn sao Hải Sư lại được người Do Thái coi là Đấng bổn mạng. Đây là hai ngôi sao sáng nhất trong thái dương hệ và cái hiện tượng hội ngộ giao thoa chỉ xảy ra một lần trong hai ba thế kỷ, như giải thích ở trên, đưọc xem là giả thuyết hợp lý về ngôi sao Bethlehem trong truyền thuyết.
Người Việt định cư ở Đức khoảng 80 ngàn, ở rải rác khắp nơi. Tại các thành phố lớn, người Việt đông nên sinh hoạt có tổ chức. Giáo dân người Việt cũng như các dân tộc khác định cư tại Đức, nếu có Cộng đồng sinh hoạt đàng hoàng thì được Tòa Tổng Giám mục cấp nhà lớn làm trung tâm sinh hoạt riêng, có văn phòng làm việc, nhà nguyện và thánh lễ chiều trong ngày để các cụ đến đọc kinh. Thành phố Munich thuộc tiểu bang Bavaria miền Nam Đức. Munich và các vùng phụ cận như Preising, Ausburg sinh hoạt chung thành một Cộng đoàn gọi là giáo xứ Nữ Vương Hoà Bình cho trang trọng, nhưng thật ra ngưòi Việt mình đâu có đất có nhà Thờ để thành một giáo xứ riêng biệt. Tín đồ Thiên chúa giáo khoảng trên dưới một ngàn người. Những thánh lễ lớn, người Việt phải nhờ các nhà Thờ của giáo xứ người Đức. Sau Thánh lễ là văn nghệ mừng Giáng sinh rất vui và hấp dẫn qua các tiết mục ca hát, vũ múa, kịch. Trong dịp nầy cũng như Tết đều có các quầy bán thức ăn đủ loại với hương vị quê hương, số tiền thu được đều giúp cho trẻ em nghèo bên quê nhà. (nhà thờ tại Munich)
Người Việt Nam định cư ở Đức ít nhất cũng hơn 30 năm „nhập gia tuỳ tục“ nên ảnh hưởng ít nhiều văn hoá phong tục Đức. Những gia đình không theo đạo Thiên chúa giáo cũng mua thông tươi, hang đá và những gói qùa tặng cho con cháu trong ngày Giáng sinh, mời bạn bè đến ăn Reveillon không ngỗng quay thì vịt quay vv...Cũng có những người ngoại đạo đến dự lễ Giáng sinh, xem văn nghệ hoà mình với đời sống cộng đồng trong tình đồng hương để sưởi ấm lòng trong những ngày xa quê hương. Kính chúc tất cả người Việt trong cũng như hải ngoại mùa Giáng sinh tràn đầy Hồng Ân Thiên chúa
Nguyễn Quý Đại - Sưu tầm tài liệu Mùa Vọng II 2009