Montag, 14. Dezember 2009

Tình trạng mơ hồ có tính toán tại Biển Đông

Peter J Brown, Asia Times Online, ngày 08/12/2009
Nguồn: http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KL08Ae01.html

Ngay lúc một nhóm chuyên gia bay đến Hà Nội hồi tháng trước để dự hội thảo lần đầu tiên qui tụ nhiều nước có tuyên bố chủ quyền chồng lấn ở Biển Đông, tàu giám hộ đánh cá lớn nhất Trung Quốc, Ngư Chính 311, đã thả neo tại Đảo Vĩnh Hưng (tức Đảo Phú Lâm – người dịch) thuộc quần đảo mà Bắc Kinh gọi là Tây Sa (tức Hoàng Sa – người dịch). Đó là hành động khởi đầu cho chuyến tuần tra dài ngày của Trung Quốc tại Biển Đông, kể từ căn cứ hải quân Tam Á trên Đảo Hải Nam.

Trung Quốc khẳng định chủ quyền nhiều nơi trên Biển Đông, như quần đảo Nam Sa, Tây Sa và Trung Sa, những nguyên đơn khác – gồm Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei và Philippines – cũng đang tranh chấp chủ quyền trên các nhóm đảo và những đảo riêng lẻ. Họ gọi bằng các tên khác nhau chẳng hạn Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, Bãi ngầm Scarborough và Macclesfield, chỉ đơn cử một vài trường hợp.

Bằng chứng về hoạt động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông có thể xác định tại những điểm khống chế mặt bằng khó hiểu, chẳng hạn Đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, nơi Trung Quốc liên tục mở rộng và cải thiện đường băng, cũng như Bãi Vành Khăn xa xôi – khoảng 150 dặm về hướng Tây của Philippines, nơi Trung Quốc lập nên nhiều công trình xây dựng khác nhau. Láng giềng của Trung Quốc xem tiến trình này là hoạt động bành trướng và thậm chí thù địch, tuy đã cùng ký vào Tuyên bố chung về cách Ứng xử của các Bên trên Biển Đông năm 2002.

Theo một số chuyên gia an ninh, mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc không đơn thuần việc xây dựng vùng kinh tế đặc quyền rộng lớn (EEZ – Exclusive Economic Zone), mở rộng xuống tận phía Nam nơi Quần đảo Natuna giàu khí đốt mà Indonesia đã khẳng định chủ quyền. Họ cho rằng Trung Quốc muốn kiểm soát Biển Đông như một phần trong kế hoạch xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh hơn, với hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân (SSBN – nuclear ballistic missile submarine), trên những hải tuyến mở rộng từ Thái Bình Dương cho đến Ấn Độ Dương. Biển Đông là hải tuyến nhộn nhịp đứng hàng thứ hai thế giới, là cửa ngõ để Trung Quốc nhập khẩu dầu từ Vịnh Péc-xích cùng tài nguyên thiên nhiên từ Châu Phi.

“Các chiến đoàn hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc đặt căn cứ trên Đảo Hải Nam, và chúng sẽ tuần tra những tuyến vận chuyển tài nguyên này. Theo lãnh đạo chính trị Trung Quốc, kiểm soát Biển Đông là một mục tiêu then chốt nhằm đảm bảo sự tồn vong về kinh tế cũng như chính trị cho nền cai trị độc tài của Đảng Cộng sản,” Richard Fisher, học giả cao cấp thuộc Trung tâm Đánh giá và Chiến lược Quốc tế ở Washington, phát biểu.

Tuy nhiên, ông cho rằng Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia và nhiều nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vẫn đang cản đường Trung Quốc.

“[Trung Quốc muốn] biến Biển Đông thành lãnh hải được bảo vệ sát sao cho hoạt động SSBN cho đến khi Đài Loan có thể cung cấp căn cứ tốt hơn cho những hoạt động SSBN,” Fisher nhận định. “Trung Quốc có thể đặt phân nửa số tên lửa hạt nhân trên các SSBN, tức họ sẽ dừng lại chỉ sau khi đã áp đặt được hình thức quản lý tương lai cho Biển Đông.” Hành động tăng cường sự hiện diện trên biển của Trung Quốc đồng nghĩa với việc Cục Quản lý Nhà nước về Tài nguyên Biển (SOA – State Oceanic Administration) và Cơ quan Giám sát Đường biển Trung Quốc (CMS – China Maritime Surveillance) muốn rằng ngư dân và tàu nghiên cứu đại dương di chuyển trên Biển Đông của các quốc gia khác trong vùng sẽ ngày càng phải giáp mặt nhiều hơn những tàu lớn hơn và tối tân hơn của Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN), trong đó có tàu Ngư Chính 311.

Biến cố hôm 16/03 chứng tỏ Bắc Kinh ngày càng tỏ ra sẵn sàng ra lệnh cho các tàu không thuộc PLAN, gồm những tàu thuộc hải đoàn SOA và CMS, thi hành các hành động vũ lực tại quần đảo Trường Sa – nhằm làm nhục những nước láng giềng, đặc biệt là Philippines. Sau khi tàu do thám USNS Impeccable của Hoa Kỳ bị tàu Trung Quốc quấy rối hôm 08/03, Trung Quốc đã triển khai cái họ gọi là tàu ngư chính (tuần tra ngư thuyền) – chứ không phải tàu chiến – nhằm bảo vệ quyền lợi của họ trên Biển Đông.

“Trung Quốc thiết tha muốn biến ý đồ kiểm soát Biển Đông thành một hành động gìn giữ trật tự mang tính đối đầu, trong khi Việt Nam, Philippines và các quốc gia khác về cơ bản chẳng làm gì cả,” Fisher phát biểu. “Trao cho cơ quan không thuộc PLAN những tàu lớn hơn cùng hỏa lực mạnh hơn có thể là một nỗ lực quân sự hóa mang tính giảm nhẹ, nhưng tác động gây bất ổn thì vẫn như nhau.”

Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông thường phát sinh xung đột, trong đó có cuộc đụng độ giữa tàu hải quân Trung Quốc và Việt Nam năm 1988 ở Bãi Đá Gạc Ma thuộc Quần đảo Trường Sa. Phiên họp chung hồi tháng trước tại Hà Nội, do Học viện Ngoại giao cùng Hội Luật gia Việt Nam đồng tổ chức, đã đi đến các hứa hẹn khởi động cuộc đối thoại đa phương về nhiều tuyên bố chủ quyền chồng lấn chưa được giải quyết trong khu vực.

“Tuy trong quá khứ Trung Quốc luôn cương quyết về những giải pháp song phương, song chẳng đạt được tiến bộ nào vì hầu hết tranh chấp đều cần sự nhượng bộ từ nhiều phía. Mục tiêu hội thảo là nhằm xây dựng lòng tin qua hai phiên thảo luận sơ bộ và không ràng buộc, đồng thời một tín hiệu tốt là các học giả Trung Quốc đã tham dự hội nghị vì điều này sẽ phản ánh mức độ chấp nhận nào đó bên phía Trung Quốc về cách tiếp cận đa phương nhằm gỡ rối xung đột,” Dutton phát biểu.

Theo một trong những người tham dự, Carlyle Thayer, giáo sư chính trị học tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Australia, chẳng có phái đoàn quốc gia nào tham dự, các đại diện Trung Quốc được hoan nghênh chỉ đến từ trường đại học và tổ chức nghiên cứu chính sách (think tank). “Cuộc họp được gọi là hội thảo, chứ không phải hội nghị, nhằm tránh ấn tượng hy vọng rằng một loạt các kết luận dưới dạng một nghị quyết hay một tuyên bố sẽ được ban hành,” Thayer nhận định.

Sự kiện đã thành công trong việc xới lên những quan ngại trong khu vực về diễn biến Biển Đông, nơi cho là đang tàng trữ rất nhiều dầu khí, được “các đại biểu nhấn mạnh là đang chuyển biến hoặc có tiềm năng xấu,” Thayer phát biểu. “Đã nổi lên sự đồng thuận cho rằng một đề xuất phối hợp phát triển lâu dài phải được phục hồi để các nước tham gia tranh chấp xem xét.”

Bản đồ ngớ ngẩn

Thayer nhận định, bên cạnh sự kiện “chẳng có ai đại diện cho Trung Quốc,” quan trọng hơn có lẽ là “bản đồ chín đường đứt đoạn” do một học giả Trung Quốc trình bày, “hiện đang gây tranh luận”. Năm 1947, Chính phủ Tưởng Giới Thạch đưa ra tuyên bố Biển Đông với một bản đồ có 11 đường đứt đoạn.

Bản đồ này được Cộng sản Trung Quốc thừa nhận lúc họ lên nắm quyền và sau đó Thủ tướng Chu Ân Lai xóa đi hai đường trong Vịnh Bắc Bộ, giảm 11 đoạn về chín. Bản đồ không chính thức chứa chín đường đứt đoạn đã được lưu hành từ lâu. Các quan chức trong khu vực không thể yêu cầu Trung Quốc giải thích cơ sở nào đã tạo ra những đường đứt đoạn này và diện tích khu vực mà họ khẳng định chủ quyền, theo Thayer.

“Học giả Trung Quốc nói rõ rằng bản đồ Biển Đông chính thức có chứa chín đường đứt đoạn, thể hiện phạm vi mở rộng tối đa của những tuyên bố chủ quyền trong lịch sử của họ về khu vực này. Chuyên gia Trung Quốc lưu ý rằng vấn đề này có thể được thảo luận thêm,” Thayer cho hay. “Chẳng hạn, một học giả Trung Quốc đề nghị, nếu các nước khẳng định chủ quyền trên thềm lục địa mở rộng rút lại những khẳng định đó, một số khu vực bên trong đường đứt đoạn có thể tuân theo việc phát triển chung.”

Đề xuất này gắn liền với bản đăng ký thềm lục địa mở rộng do Việt Nam và Malaysia đệ trình hồi đầu năm theo thời hạn mà Liên Hiệp Quốc đã đề ra. Hai nước đăng ký chung các khu vực phía Nam, trong khi Việt Nam trình riêng bản đăng ký thềm lục địa mở rộng ở phía Bắc.

“Trung Quốc đã gửi công hàm phản đối kèm theo bản đồ chín đường đứt đoạn nhằm chỉ ra khu vực mà họ bảo là thuộc về Trung Quốc. Có vẻ đây là lần đầu tiên Chính phủ Trung Quốc đệ trình bản đồ này,” Thayer cho biết. “Trung Quốc đang cố tình theo đuổi chính sách mơ hồ có tính toán trong vấn đề này. Họ đang trì hoãn bất kỳ hòa giải nào về những tuyên bố chủ quyền lãnh hải gây tranh chấp cho đến lúc thích hợp với Bắc Kinh.”

Hiện đã có thảo luận về một hội thảo Biển Đông lần thứ hai tại Hà Nội vào giữa năm 2010. Dutton xác định một số đề mục có thể thảo luận. “Một bước đi tích cực là tổ chức diễn đàn đa phương mang tầm khu vực nhằm thảo luận nhiều dự án đa phương khả dĩ, có thể nghiên cứu phạm vi các trữ lượng hydrocarbon dưới Biển Đông,” Dutton phát biểu.

“Bước đi tích cực khác có thể bao gồm phát triển khuôn khổ quản lý đa phương về tài nguyên sinh vật, cùng một tổ chức mang tầm khu vực nhằm điều phối hoạt động đánh cá bền vững cho tất cả các bên liên quan, dựa trên hiệp ước cấp phát tổng lượng đánh bắt cho phép đối với những bên khác nhau. Các bước đi như thế sẽ giải quyết được một số thách thức ít rắc rối hơn, trong lúc tạm thời hoãn lại những vấn đề khó khăn liên quan đến chủ quyền,” ông nói.

Tuyên bố thành kiến

Dutton lưu ý rằng tranh luận bên trong Trung Quốc luôn khăng khăng về bản chất xác thực của các khẳng định chủ quyền và quyền tài phán nhà nước duyên hải của họ trên Biển Đông. Ngoài những vấn đề khác, rất có thể ở đây Trung Quốc sẽ thiên về giải pháp chính trị, thay vì giải pháp áp dụng một khuôn khổ pháp lý mà có thể phương hại đến các tuyên bố của họ, ông nhận định.

“Luật pháp bên trong Trung Quốc đã khẳng định chủ quyền trên mọi hòn đảo thuộc Biển Đông đồng thời còn khẳng định những lãnh hải và EEZ phát xuất từ các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của họ. Tuy nhiên, Trung Quốc có thể hưởng lợi nếu duy trì tình trạng mơ hồ về bản chất xác thực của những khẳng định pháp lý Biển Đông của họ,” Dutton phát biểu.

“Điều vô cùng quan trọng là việc hòa giải các tuyên bố của Trung Quốc trên Biển Đông không được áp dụng biện pháp pháp lý mà có thể ảnh hưởng đến những khẳng định chủ quyền của họ đối với Nhật Bản trên Biển Hoa Đông. Như vậy, từ quan điểm Trung Quốc, khuôn khổ pháp lý nhằm giải quyết các tranh chấp Biển Đông phải được triển khai sao cho không được phương hại đến những tuyên bố chủ quyền trên Biển Hoa Đông của họ.”

Dù có hay không khuôn khổ pháp lý, Thayer tin rằng Trung Quốc sẽ theo đuổi hành động gây chia rẽ các nước trong khu vực và nhắm vào những thỏa thuận song phương.

“Trung Quốc hiện đã bảo 10 thành viên thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á rằng họ cần phải làm việc với nhau trước khi tiếp cận Trung Quốc để thảo luận về Biển Đông. Một số nước ASEAN cho rằng việc đạt được sự đồng thuận trong 10 quốc gia ASEAN sẽ gặp khó khăn, đồng thời một khối duy nhất chỉ tạo ra xích mích trong lúc đàm phán với Trung Quốc,” Thayer cho hay.

Tiếp sau hội thảo gần đây ở Hà Nội sẽ là vòng thảo luận khác về Biển Đông vào ngày 16/12. Vòng kế tiếp được gọi là những thảo luận về Thỏa thuận Tư vấn Quân sự Hàng hải (MMCA – Military Maritime Consultative Agreement) gồm các phái đoàn đến từ Trung Quốc và Hoa Kỳ. Cuộc họp sẽ diễn ra tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương ở Honolulu, Hawaii.

“Về cơ bản, Hội nghị Việt Nam là “bản nhạc thứ hai” nhằm thảo luận một số vấn đề, trong khi MMCA lại là “bản thứ nhất” về đối thoại quân-sự-với-quân-sự,” Dutton nhận định. “Hội nghị Việt Nam sẽ không tác động đến MMCA, vì vấn đề thảo luận khác nhau về cơ bản. Đại biểu tham dự Hội nghị Việt Nam đã thảo luận về vấn đề chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, trong khi thảo luận của MMCA sẽ tập trung vào quyền tự do đi lại và việc sử dụng quân sự trên vùng biển ngoài bờ Trung Quốc.”

Thayer lưu ý rằng Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đã không gửi quan sát viên ngoại giao của mình đến dự hội thảo, như vậy Hoa Kỳ đã đứng xa các tranh chấp chủ quyền và lãnh thổ trên Biển Đông. “Phiên họp MMCA kế tiếp có thể ngăn chặn hành động đối đầu trên biển, chẳng hạn vụ liên quan đến tàu USNS Impeccable. Nhưng ‘Thỏa thuận về Đối đầu trên Biển’ có thể phải mất từ một năm trở lên mới được ký kết,” Thayer phát biểu.

Thayer đề cập đến chuyến viếng thăm Hoa Kỳ hồi tháng 10 của Tướng Xu Caihou, Phó Chủ tịch Quân Ủy Trung ương. Tướng Xu xác định bốn trở ngại cho mối quan hệ quân sự Hoa Kỳ – Trung Quốc lành mạnh và ổn định, bắt đầu là Đài Loan, ông kêu gọi Hoa Kỳ chấm dứt hoạt động xâm nhập EEZ trên vùng biển Trung Quốc bằng máy bay quân sự và tàu thủy.

“Mục tiêu chính của Trung Quốc là khiến Hoa Kỳ giảm bớt, nếu không nói là chấm dứt, những hoạt động giám sát ven miền duyên hải Trung Quốc và đặc biệt là căn cứ hải quân trên Đảo Hải Nam,” Thayer nhận định.

Bên cạnh yêu cầu của Tướng Xu, Fisher còn cho hay một vị tướng PLA vừa nghỉ hưu đã công khai kêu gọi Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ việc triển khai lực lượng quân sự của họ trên Biển Đông đồng thời xây dựng một căn cứ không quân trên Bãi Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa.

“Ngoài vấn đề chỉ cách xa đảo Palawan của Philippines 200 dặm, nó sẽ mở rộng phạm vi kiểm soát của PLA đến tận Eo biển Palawan, một hải tuyến thương mại sống còn đối với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan,” Fisher phát biểu, mới đây ông đã viết một bài về vấn đề này. “Căn cứ không quân trên Bãi Vành Khăn sẽ tạo ra một thách thức an ninh ở cấp rất cao khiến Washington không thể bỏ qua.”

Các hòn đảo thuộc Đài Loan trên Biển Đông còn làm cho vấn đề càng phức tạp hơn. “Còn có những đảo nhỏ hơn sát với Hải Nam do Đài Loan chiếm giữ. Bắc Kinh có thể viện dẫn một số lý do, từ hoạt động quân sự đe dọa nhắm vào cơ sở hạt nhân trên Hải Nam, cho đến tham vọng tạo ra tình trạng bất ổn tại Đài Loan, để xâm chiếm chúng,” Fisher cho hay.

“Nhờ đầu tư cả chục năm vào lực lượng lính thủy đánh bộ, PLA có thể dễ dành đánh chiếm những hòn đảo này. Ngoài việc từ lâu thừa nhận chính sách ‘Một Trung Quốc’ của Bắc Kinh, rất khó xảy ra khả năng bất kỳ quốc gia Châu Á nào sẽ phản ứng theo cách bảo vệ quyền lợi to lớn hơn của Trung Quốc.”

Biển Đông và ngay cả Đài Loan đã không còn là tầm quan trọng chiến lược đối với Hoa Kỳ như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Nhưng Trung Quốc không nên xem lập trường ngày càng “vô tư” này là hiển nhiên. Chiến lược của Hoa Kỳ có thể sẽ chuyển biến, gia tăng theo hoạt động quân sự của Trung Quốc bên trong khu vực. Đồng thời vẫn còn quá sớm nếu cho rằng hội thảo Hà Nội đặc biệt mở ra một chương mới quan trọng về cách giải quyết của Trung Quốc với các nước láng giềng.

“Việc tiếp tục thể hiện thái độ trung lập của Hoa Kỳ sẽ chỉ phục vụ cho việc đẩy nhanh đến ngày Trung Quốc thành kẻ bá quyền phi dân chủ trong khu vực, với khả năng sử dụng những áp lực kinh tế và quân sự to lớn nhằm buộc các nước trong vùng tuân theo ý muốn của họ,” Fisher phát biểu.

Peter J Brown là một nhà văn tự do sống ở tiểu bang Maine – Hoa Kỳ.

BVN dịch