Thích Viên Định
Cùng bị chia đôi đất nước, sau đệ nhị thế chiến, nhưng Đảng Cộng sản Đông Đức đã bắt tay với Tây Đức để thống nhất đất nước trong hoà bình, không tốn một viên đạn, không mất một giọt máu. Ở Triều Tiên, tuy không thể bắt tay để thống nhất hai miền Nam Bắc như Cộng sản Đức, nhưng Đảng Cộng sản Triều Tiên, cũng đắn đo, thận trọng, không gây hấn với miền Nam theo chế độ dân chủ.
Cộng sản Việt Nam thì khác hẳn. Không ôn hoà như Cộng sản Đức, cũng chẳng tương nhượng giống Cộng sản Triều Tiên. Với bản chất cực đoan, sùng tín lý tưởng Mác-Lê nin, ý thức hệ vô sản, Cộng sản Việt Nam đã phát động chiến tranh giữa hai miền Nam, Bắc. Sau 21 năm huynh đệ tương tàn, máu đổ, thịt rơi, cuối cùng, cộng sản Bắc Việt đã nhuộm đỏ miền Nam.
Tuy cuộc chiến chấm dứt, nhưng hậu quả chiến tranh làm cho đất nước tan hoang, lòng người ly tán. Đảng cộng sản lại gây ra cảnh tù tội, đàn áp, khủng bố, vô sản, đói nghèo làm nhiều gia đình tan nát, thù hận chất chồng, không biết đến bao giờ dân tộc mới sum hợp một nhà.
Để dễ dàng thực hiện các đường lối vô sản, ngoại lai, phi dân tộc, cộng sản đã theo phương châm của Lê-Nin: “Đảng phải thông qua tôn giáo để khống chế quần chúng”
“Năm 1951, Mặt Trận Liên Việt, tiền thân của Mặt Trận Tổ Quốc, mở cuộc họp. Tại cuộc họp này, ông Chủ tịch Mặt Trận tuyên bố: “Sinh hoạt Phật giáo phải theo mô thức Hội đoàn như các hội đoàn thanh niên, phụ nữ, lão thành, từ mẫu, nông dân, v.v…”. Hòa Thượng Huyền Quang liền lên tiếng phản đối : “Phật giáo chúng tôi là một tôn giáo qui tụ đủ mọi thành phần trí thức, nông dân, nam, phụ, lão, ấu. Sinh hoạt theo hệ thống tôn giáo với mục đích hoằng dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh. Như vậy, thì làm sao ông Chủ tịch lại phân hóa tôn giáo chúng tôi thành những hội đoàn nhỏ bé ?”
Cộng sản đã bỏ tù Hoà thượng Thích Huyền Quang 4 năm vì ngài chống đối lại chính sách này.
I. Biến cố Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất năm 1981:
Tuy luôn đồng hành cùng dân tộc, nhưng với tư tưởng độc lập, tự do, không phụ thuộc vào bất cứ tổ chức, đảng phái chính trị nào mà cố Hoà thượng Thích Huyền Quang kế thừa truyền thống lịch sử 2000 năm của Chư Tổ, lập thành tư tưởng dẫn đạo cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), nhằm phụng sự nhân loại và dân tộc.
Dự kiến những biến động có thể xảy ra cho đất nước làm ảnh hưởng đến uy tín Giáo hội, Viện Hoá Đạo đã ra “Thông Tư số 150” do Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng, ký ngày 25 .1. 1975 :
“…Để tránh mọi ngộ nhận có thể có đối với lập trường và đường hướng cố hữu của Giáo Hội, Viện Hóa Đạo kính yêu cầu quí vị hãy thận trọng, không nên tham gia bất cứ tổ chức nào ngoài tổ chức của Giáo Hội…”
Và nhất là “Thông Tư số 002” cũng do Hoà thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, ký ngày 16. 3. 1976, nhằm ngăn ngừa việc chân trong chân ngoài, vừa làm thành viên GHPGVNTN, nhưng lại tham gia vào các tổ chức, Giáo hội khác, làm biến tướng lập trường chân chánh, có nguy cơ dẫn đến sự tồn vong của Giáo Hội :
“ … Những thành viên nào trong các Ban Đại Diện hiện hữu, từ Chánh Đại diện trở xuống, nếu đã chính thức gia nhập và hoạt động cho các Giáo phái hay đoàn thể ngoài Giáo Hội, dù đã có đơn từ chức hay không, thì được coi như đã tự ý ra khỏi Giáo Hội. Trong trường hợp ấy, Ban Đại Diện có toàn quyền bầu lại hoặc bổ sung nhân sự mới…”
Nhưng trước sự khủng bố, đe doạ, tuyên truyền, dụ dỗ của cộng sản, trừ những vị đã vượt thoát ra nước ngoài, những vị còn lại, chỉ có hai con đường để lựa chọn : một là phải chịu cảnh tù tội, lưu đày như hai Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, giữ tròn khí tiết “Sa môn bất bái vương giả” và giữ vững đường hướng, lập trường phục vụ nhân loại và dân tộc của GHPGVNTN ; hai là phải cúi đầu, nhắm mắt đưa chân, bước lên thuyền khác, làm công cụ, phục vụ cho đảng phái chính trị thế gian.
Buổi họp cuối cùng, giữa Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo với Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, vào tháng 9 năm 1981, đã thất bại sau lời phát biểu đầy bi tráng của Hoà thượng Thích Quảng Độ :
“Kính thưa toàn thể quí vị, chắc quí vị cũng như tôi đều thấy rõ hiện nay con thuyền Giáo-hội Phật giáo Việt-nam Thống nhất đang lênh đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ chìm lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hãi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, thì xin quí vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một điều là : trước khi bước sang thuyền khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi giạt trong sóng gió với những người còn ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bờ bình an thì họ sống, còn nếu chẳng may con thuyền chìm thì họ cũng sẽ sẵn sàng chết theo nó, chứ quí vị ấy đừng đang tâm nhận chìm con thuyền của mình mà có lần đã từng đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quí vị có thế thôi…”
Như vậy, Viện Hoá Đạo đã không đề cử bất cứ đại biểu nào tham gia vào Giáo hội mới của nhà nước. GHPGVNTN vẫn đứng độc lập. Pháp lý GHPGVNTN vẫn tồn tại. Một số thành viên của GHPGVNTN tham gia vào Giáo hội mới chỉ với tư cách cá nhân. Phái đoàn tham dự vào Giáo hội mới, lấy danh nghĩa đại diện cho GHPGVNTN, là phái đoàn giả mạo, họ khắc riêng con dấu giả mạo để tiếm danh Giáo hội.
Đương nhiên, tuy không ai muốn, nhưng những vị yếu lòng, đã bỏ thuyền cũ, bước sang thuyền mới, đã miễn cưỡng, tìm cách đưa ra những lý do, để biện minh cho hành động thay đổi lập trường của mình, nào là : “nhu thắng cương, nhược thắng cường”, “gió chiều nào ngả theo chiều ấy”, “hy sinh danh dự cá nhân cho quý thầy làm việc”, v.v…
Trước cảnh tượng như vậy, Hoà thượng Đức Nhuận than rằng : “Ðau xót biết bao, khi Phật giáo Việt nam từ con lạch nhỏ vùng thoát ra được biển khơi, thì nay quí Hòa-thượng lại tự bước vào nước vũng ao tù”. (trích thư của cố Hòa thượng Thích Ðức-Nhuận).
Đầu năm 1982, sau khi Nhị vị Hoà thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị lưu đày biệt xứ, Văn Phòng Viện Hoá Đạo bị tê liệt, mọi Phật sự Giáo hội bị đình trệ. Các Ban Đại Diện địa phương không người chỉ đạo, hầu hết đều bị áp lực kéo theo ngã rẽ khác.
Tuy vậy, Cộng sản cũng đã thất bại trong việc tổ chức những cuộc đấu tổ, hướng dẫn, mớm ý cho chư Tăng, tố cáo Nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ. Họ quy kết hai vị phá hoại đoàn kết dân tộc, vì không chịu gia nhập vào Gíao hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) của nhà nước. Chư Tăng, trên toàn quốc, đã khéo léo từ chối, không ai đồng ý việc tố cáo nhị vị Hoà thượng. Vì tuy bị áp buộc phải theo GHPGVN, do Nhà cầm quyền thành lập, nhưng trong thâm tâm tất cả chư Tăng đều phân biệt rõ nẻo chánh đường tà. Điều đó chứng tỏ rằng : “Chỉ có Giáo Hội quốc doanh, không có chư Tăng quốc doanh”. Cũng vậy, ngoài 3 triệu đảng viên Cộng sản, 85 triệu người dân Việt Nam, không ai theo cộng sản cả.
Sau một thời gian tham gia vào GHPGVN, do nhà cầm quyền cộng sản thành lập, một số thành viên lỡ bước, cũng thức tỉnh, đã mạnh dạn quay về với GHPGVNTN.
Năm 1981, cộng sản đã thực hiện việc phân tán nhân sự, làm tê liệt mọi sinh hoạt của GHPGVNTN, nhưng không huỷ hoại được pháp lý của GHPGVNTN. Cộng sản cũng đã triệt phá được các cơ sở của GHPGVNTN nhưng không thay đổi được lập trường tự do, độc lập, nhằm phụng sự cho nhân loại và dân tộc của GHPGVNTN.
Rút kinh nghiệm từ những sơ sót, sai lầm năm 1981, bắt đầu sang năm 2004, Cộng sản lại tìm cách đánh phá GHPGVNTN lần nữa, tinh vi hơn, kỹ lưỡng hơn, nhằm dứt điểm tận gốc GHPGVNTN.
II. Nghị Quyết 36 với những biến cố xảy ra cho GHPGVNTN từ năm 2004 đến 2008, nhằm biến tướng, tiêu diệt GHPGVNTN
Tuy Phật sự GHPGVNTN tạm thời bị đình trệ sau biến cố năm 1981, nhưng tinh thần, ý chí cũng như sinh hoạt ngầm vẫn tiếp tục. Nhất là sự hiện diện kiên cường của nhị vị lãnh đạo tối cao, đầy trí dũng, là Hoà thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Năm 1992, đáp lời kêu gọi của Đại Lão Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư ký kiêm Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN và Di Chúc của Ngài, Hoà thượng Thích Huyền Quang, Quyền Viện trưởng Viện Hoá Đạo đã ký Quyết Định thành lập các Chi bộ GHPGVNTN tại Hải ngoại. Bắt đầu là GHPGVNTNHN tại Hoa kỳ - Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, ngày 10.12.1992. Trong Quyết Định này, ghi rõ :
Điều 2: Nay công nhận GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa kỳ do Đại hội ngày 25-26-27 tháng 9 năm 1992 vừa công nhiên thành lập tại San Jose, California, Hoa Kỳ.
Điều 5: Văn phòng GHPGVNTN Hải ngoại Hoa kỳ cấp Liên bang được coi như Văn phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN quốc nội.”
Tiếp đến là các Giáo Hội ở Âu châu, Canada, Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan cũng được tuần tự thành lập và trình thư về trong nước xin được công nhận.
Ngày 02.4.2003, sau cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng Phan Văn Khải và vị tù nhân tôn giáo, Thích Huyền Quang, không ngờ lại làm tiền đề cho sự hình thành Đại Hội Bất thường tại Tu Viện Nguyên Thiều, ngày 01.10.2003. Đại hội này đã kiện toàn Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN trong và ngoài nước. Nhưng ngay sau Đại hội này, hầu hết Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo và Đức cố Tăng thống đều bị Nhà cầm quyền bắt bớ rồi ra lệnh quản thúc hai năm.
Nhà cầm quyền lại tìm cách ngăn chặn việc thành lập các Ban Đại Diện địa phương. Nhưng trước sự lãnh đạo sáng suốt của nhị vị Hoà thượng, và chí hướng kiên cường của chư Tăng, Nhà cầm quyền cộng sản cũng thất bại. Hai mươi Ban Đại Diện GHPGVNTN các tỉnh, thành, quận, huyện trên toàn quốc cũng đồng loạt phục hoạt trở lại.
Vậy là GHPGVNTN lại tái phục hoạt trong thực tế như trước năm 1981.
Thế nhưng, Cộng sản không chịu dừng tay, lại tìm cách khác, tinh vi hơn, đánh phá GHPGVNTN mới phục hoạt này.
Nghị Quyết 36, năm 2004, được triển khai, thi hành, nội công, ngoại kích, tiếp tục đánh phá GHPGVNTN.
Rút kinh nghiệm những sai lầm năm 1981, không tiêu diệt được GHPGVNTN. Lần này, không những đánh phá về nhân sự, Nhà cầm quyền cộng sản còn đánh phá về mặt pháp lý và uy tín, nhằm biến tướng con đường Bát chánh của GHPGVNTN, để thích hợp sử dụng trong hoàn cảnh mới.
1- Mục tiêu đánh phá trước nhất nhắm vào Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris. Bịt được cái loa này, thì việc thực hiện các việc khác dễ dàng hơn.
2- Từ năm 2004, những nguồn dư luận, ý kiến, bất lợi cho GHPGVNTN, không biết do các thành viên trong Giáo hội đưa ra, hay từ bên ngoài xâm nhập, đã lan truyền, luân lưu trong các thành viên GHPGVNTN trong cũng như ngoài nước. Ngay cả những thành viên lãnh đạo cao cấp trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo cũng có vị tuyên truyền, cổ động những tư tưởng kỳ lạ này, chẳng hạn như :
- “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong nước đã hoạt động trở lại, không cần Phòng Thông Tin Quốc Tế bên ngoài nữa”.
- “Tiếng nói của Chư Tăng mà phải thông qua Cư Sĩ (Cư sĩ Võ Văn Ái, Giám Đốc PTTPGQT ) là không đúng”.
- “Hãy hoá thân, lấy Ban Đại Diện GHPGVN, thành viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, làm Ban Đại Diện GHPGVNTN, không nên thành lập Ban Đại Diện mới”.
- “Thiền Sư Nhất Hạnh về Việt Nam hợp tác sẽ thu hút giới thanh niên, trí thức, ủng hộ cho nhóm Cộng sản cấp tiến, đánh bại nhóm cộng sản thủ cựu. Chỉ có nhóm Cộng sản thủ cựu và Thiên chúa mới chống Thiền sư Nhất Hạnh, còn Phật giáo thì nên ủng hộ Ngài……”
- “Việt Nam ngày nay đã đổi mới, không còn Cộng sản như trước nữa. Mỹ là kẻ thù còn bắt tay hợp tác làm ăn với Việt Nam, chúng ta là người Việt Nam sao không về hợp tác làm ăn…”.
3- Dùng người của GHPGVNTN vận động các thành viên ly khai GHPGVNTN để thành lập Giáo hội mới.
4- Tiến hành nhũng cuộc vận động hoà giải, hoà hợp với Nhà cầm quyền cộng sản trong các vấn đề từ thiện, văn hoá, giáo dục…
5- Lập đàn giải oan, Hội thảo, tổ chức Đại lễ Phật Đản Vesak năm 2008, v.v…
Các Bản Phúc trình của Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN, Hoà thượng Thích Không Tánh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội và Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức, từ Huế, đã phần nào tóm lược được các sự kiện nói trên đây. (Xin xem Ghi chú cần biết ở dưới bài để rõ những mánh mung và vấn nạn).
Qua nội dung được trình bày chi tiết trong các Bản Phúc trình trên, chúng ta thấy rằng, việc đánh phá GHPGVNTN lần này không chỉ về mặt nhân sự, mà còn nhằm mục đích đánh phá về phương diện pháp lý mà mục tiêu chủ yếu cốt biến tướng lập trường Bát chánh đạo, để triệt hạ uy tín của GHPGVNTN.
Lần đánh phá này, âm thầm, kín đáo nhưng đoan quyết, bắt đầu từ cội gốc trong nước, sau mới chỉ thị ra đến hải ngoại.
Ban đầu, lợi dụng một vài bất đồng ý kiến trong nội bộ các thành viên Giáo hội, tiếp đến, khai thác các yếu tố địa phương, tình cảm, giáo phái, thầy trò, mục tiêu hoạt động... để phân tán, ly gián, chia cắt GHPGVNTN ra thành nhiều tổ chức nhỏ. Việc từ chức riêng lẻ hay đồng loạt để gây áp lực lên Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo là một điển hình.
Đặc biệt, phát triển nhận định thành lý giải mê hoặc quần chúng Phật tử, như : “Thiền Sư Nhất Hạnh về Việt Nam hợp tác sẽ thu hút giới thanh niên, trí thức, ủng hộ cho nhóm Cộng sản cấp tiến, đánh bại nhóm cộng sản thủ cựu. Chỉ có phái Cộng sản thủ cựu và Thiên chúa mới chống Thiền sư Nhất Hạnh, còn Phật giáo thì nên ủng hộ Ngài…”
Luồng dư luận rỉ tai trên đây, lúc đầu chỉ thấy xuất hiện trong nội bộ một số thành viên GHPGVNTN trong nước, ở thời diểm cuối năm 2004. Nhưng vừa rồi hôm 1.9.2009, sư cô Chân Không trả lời phỏng vấn ký giả Ngọc Lan trên báo Người Việt ở California, người ta thấy có sự trùng hợp với dư luận tung ra 5 năm trước. Sư cô xác định : “…Cái kẹt thứ hai là của mấy người ở Trung ương bị Trung Quốc ức hiếp. Sư Ông Nhất Hạnh từng phát biểu trên một đài truyền hình Ý về vấn đề Tây Tạng. Nhóm thủ cựu Việt Nam sợ Trung Quốc, lời phát biểu của Sư ông làm cho Trung Quốc giận…”
Như vậy, việc này, có thể đã có sự hội ý, tổ chức, phối hợp trong ngoài để hỗ trợ, thực hiện vấn đề hợp tác với nhà cầm quyền Cộng sản từ trước, mà việc Thiền sư Nhất Hạnh về Việt Nam là khởi đầu cho bước tiến huỷ tiêu GHPGVNTN. Để thoa vuốt và lôi kéo Phật tử đi với chính quyền, thì tạo ra hai thứ Cộng sản thân Trung quốc và chống Trung quốc. Nhưng biến Phật giáo thành công cụ hay đàn áp thẳng tay GHPGVNTN, thì chỉ có MỘT thứ Cộng sản, chẳng thấy “phe” Cộng sản thứ nhất hay thứ hai nào đứng ra binh ?!
Sau chuyến về Việt Nam năm 2005 của Thiền sư Nhất Hạnh, các nhóm hoà hợp, hoà giải tiếp tục vận động chư Tăng và Phật tử về nước để tổ chức Hội thảo Phật giáo về “Cơ hội và Thách Thức” tại Saigòn tháng 7 năm 2006. Nhưng rầm rộ nhất là công cuộc vận động tổ chức Đại lễ Vesak 2008, tại Hà Nội.
Sự chuẩn bị lan tới cả hàng giáo phẩm cấp cao của GHPGVNTN ở trong nước. Ngày 29.8.2007, Tướng Trần Tư thuộc Bộ Công An, Cục trưởng Cục A41, tức Cục An ninh xã hội theo dõi và kiểm soát các tổ chức tôn giáo, vào Tu Viện Nguyên Thiều thuyết phục Đức Tăng Thống ra Hà Nội dự Đại lễ Phật Đản Vesak 2008, nhưng Đức Tăng Thống đã nhẹ nhàng từ chối.
Mặt khác, ở hải ngoại, một số chư Tăng ở các Giáo hội Úc, Âu, Mỹ, Canada, vận động các thành viên GHPGVNTN hợp tác tổ chức, chuẩn bị về Việt Nam tham dự Đại lễ Phật Đản Vesak LHQ. Có hai vị Thượng toạ điện thoại về thuyết phục Đại Lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, nên tham gia vào Đại Lễ này, họ lập luận rằng : “Nhà cầm quyền Việt Nam tổ chức Đại lễ Vesak lần này chỉ thuần tuý tôn giáo, xin Hoà thượng cho chư Tăng trong GHPGVNTN ra hợp tác tổ chức, đến ngày lễ chính thức, cung thỉnh Đức Tăng Thống và Hoà thượng Viện Trưởng cùng ra Hà Nội tham dự”.
Nhưng Hoà thượng Viện Trưởng Viện Hoá Đạo đã bác bỏ, ngài nói rằng : “Nhà cầm quyền cộng sản là những người đập phá chùa chiền, bắn giết Tăng, Ni, đốt huỷ kinh, tượng, mà các vị cho là chỉ tổ chức Phật đản thuần tuý tôn giáo thôi sao ?! Tôi không tin !”
Quả thật, sau Đại lễ Vesak, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Trưởng Ban tổ chức, đã trả lời phỏng vấn trên đài truyền hình SBTN của người Việt hải ngoại tại Hoa Kỳ rằng: “Lễ này, thực chất là việc làm công tác đối ngoại của nhà cầm quyền cộng sản, hoàn toàn không phải của Phật giáo”.
Nếu GHPGVNTN đồng ý, hợp tác tổ chức, tham dự Đại lễ Vesak 2008, theo sự vận động, thuyết phục của Tướng Trần Tư và một vài chư Tăng Hải ngoại, thì vận mạng, pháp lý của GHPGVNTN không biết, bây giờ, sẽ đi về đâu?
Tóm lại, trước sự khủng bố, đàn áp, tuyên truyền, chiêu dụ của Nhà cầm quyền cộng sản, nhìn chung thấy được ba khuynh hướng của một số chư Tăng như sau:
1. Khuynh hướng tuỳ thời, an phận:
“Gió chiều nào, ngả theo chiều ấy” là các vị đã gia nhập GHPGVN do Nhà cầm quyền cộng sản thành lập năm 1981, để được yên thân.
Những người này cho rằng:
Đạo pháp suy vi: bởi lẽ trời
Thấy kẻ phá chùa: khoanh tay đứng
Nhìn người đập tượng: nhắm mắt ngồi
Bắt bớ tăng ni: thây mẹ nó
Giam cầm Phật tử: mặc cha đời
Miễn được yên thân là khôn đấy
Can chi ậm ọe để thiệt thòi.
(Trích Thơ Tù, HT Thích Quảng Độ, NXB Quê Mẹ, Paris, 2006)
2. Khuynh hướng hoá thân, tương tức:
“hoà hợp, hoà giải, hợp tác với Nhà cầm quyền cộng sản để làm từ thiện, văn hoá, giáo dục” mà đại biểu là Thiền sư Nhất Hạnh và các thành viên Làng Mai ; ngoài ra còn có một số chư Tăng chủ suý việc đăng ký xin lại tư cách pháp lý GHPGVNTN ; cũng như một vài tổ chức ly khai GHPGVNTN ở hải ngoại. (Xin xem Ghi chú cần biết ở dưới bài để rõ những mánh mung và vấn nạn).
Nhiều người không biết rằng, cộng sản chỉ hợp tác lúc nào cần và để phục vụ cộng sản, xong rồi, vắt chanh bỏ vỏ, như trường hợp đã thấy qua vụ Bát Nhã Làng Mai ở Lâm Đồng của Thiền sư Nhất Hạnh.
3. Khuynh hướng giữ vững GHPGVNTN: với lập trường kiên định theo truyền thống 2000 năm lịch sử, phụng sự nhân loại và dân tộc. GHPGVNTN không tham gia, nương tựa, phục vụ cho bất cứ thế lực đảng phái chính trị nào của thế gian. Như lời Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, đã trả lời phỏng vấn Đài quốc tế :
“Chúng tôi không thể lấy sự tự do, phục hoạt của Giáo hội chúng tôi để đổi lấy Tự, do, Dân chủ, Nhân quyền của hơn 85 triệu dân Việt nam. Do đó, chúng tôi sẽ tiếp tục kêu gọi nhà cầm quyền thực thi những điều cơ bản nhất để người dân chúng tôi được sống ấm no, hạnh phúc và thăng tiến như mọi dân tộc trên thế giới hiện nay”.
III- Kết luận: Giáo Chỉ Số 9, do Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống ban hành, đã cứu nguy mạng mạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Năm 1981, nhị vị Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đã làm trụ cột, kiên cường, duy trì, gìn giữ, nên GHPGVNTN mới không bị nhà cầm quyền Cộng sản tiêu diệt.
Từ năm 2004 đến 2008, cũng nhờ nhị vị Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ làm trụ cột, GHPGVNTN mới được duy trì, tồn tại đến ngày nay.
Năm 1981, các vị tôn túc lãnh đạo thâm niên trong GHPGVNTN còn bị lung lay, dao động, bước sang thuyền khác. Đến năm 2004, lại xuất hiện một số nhỏ các vị vừa mới tham gia GHPGVNTN, nhưng tức khắc đã bị bị chao đảo, bấn loạn, khiếp sợ trước sự tấn công, đánh phá của các thế lực vô minh, cũng là điều dễ hiểu.
Trước hoàn cảnh nguy nan của đất nước, khổ nạn của dân tộc, an nguy của cá nhân, mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn cho mình một thái độ, một hướng đi. Tuy mỗi người mỗi ngã, không chung lập trường, đường hướng, nhưng cũng là đồng bào, đồng đạo, đã không ủng hộ thì thôi, xin đừng tìm cách mạo danh, đánh phá, công kích lẫn nhau.
Trước những âm mưu đen tối của Nhà cầm quyền Cộng sản nhằm tiêu diệt GHPGVNTN thông qua nhiều kế hoạch, từ bạo động đến lôi kéo, từ hứa hẹn hão đến phân hoá nội bộ… Giáo Chỉ số 9 do Đức Cố đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8 tháng 9 năm 2007 nhằm mục đích bảo vệ GHPGVNTN trước sức tiến công mới của nhà cầm quyền trong nước, đồng thời bảo vệ an toàn cho Văn Phòng II Viện Hoá Đạo tại Hải ngoại, để duy trì sự kế thừa lập trường, đường hướng của GHPGVNTN, đề phòng nguy cơ Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đánh phá, làm tê liệt Viện Hoá Đạo trong nước một lần nữa, như năm 1981.
Giáo Chỉ số 9 không nhắm loại bỏ ai như có số người xảo ngôn vu cáo. Giáo Chỉ số 9 chỉ củng cố tổ chức, đề cao nguyên tắc, đường hướng, kiện toàn pháp lý thành lập Văn Phòng II Viện Hoá Đạo hải ngoại thích nghi giai kỳ mới mà thôi !
Giáo Chỉ số 9 chỉ khai triển Giáo Chỉ số 2, cũng do Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống, Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, ban hành năm 2005, nhằm củng cố, chấn chỉnh nhân sự Văn Phòng I Viện Hoá Đạo GHPGVNTN trong nước, để ứng phó với tình hình một số thành viên trong Giáo hội đã từ chức, bất hợp tác, vì thay đổi lập trường.
Thời gian qua, từ năm 2004 đến năm 2008, những tổ chức có lập trường, đường hướng khác với lập trường của GHPGVNTN, đã dùng danh xưng của GHPGVNTN để làm những việc hoà hợp, hoà giải, liên kết với Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, gây ra nhiều sự hiểu lầm trong dư luận và quần chúng Phật tử trong và ngoài nước.
Những tổ chức này, không được Viện Hoá Đạo phê chuẩn công nhận, theo Điều thứ 36, Chương thứ 9 tại Hiến Chương GHPGVNTN. Đương nhiên, các tổ chức này không có tư cách, không phải là đơn vị thành viên các Chi Bộ Hải ngoại của GHPGVNTN.
Những Tổ chức, Giáo hội, không liên hệ hành chính, không trực thuộc Viện Hoá Đạo trong nước, dưới sự lãnh đạo của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, lại dùng danh xưng của GHPGVNTN, là những Tổ chức, Giáo hội tiếm danh, dưới sự chỉ đạo của các thế lực vô minh, nhằm mục đích phá hoại uy tín của GHPGVNTN truyền thống,
Giáo Chỉ số 9 được Đức cố Tăng Thống GHPGVNTN, Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang ban hành, chỉ với mục đích bảo vệ, duy trì Văn phòng II Viện Hoá Đạo.
Năm 1981, tuy chưa có Giáo Chỉ số 9, nhưng vẫn có một số chư Tăng rởi bỏ GHPGVNTN đi theo phục vụ Đảng và Nhà nước.
Cuối năm 2007 qua năm 2008, cũng không phải vì Giáo Chỉ số 9 mà một số chư Tăng ở hải ngoại tách rời GHPGVNTN. Các vị này vốn đã tách rời mấy năm trước đó khi trong các khoá họp nội bộ họ yêu sách Giáo hội “ngưng cuộc đấu tranh đối đầu với Cộng sản”, “nên lo chuyện tu học, văn hoá, từ thiện là đủ”.
Bằng cớ hiển nhiên là đầu năm 2007, ngày 7.1.2007, bảy tháng trước khi Giáo chỉ số 9 ban hành, các vị này đã họp riêng và cho ra đời tổ chức “Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại” ly khai GHPGVNTN.
Năm 1981, một số chư Tăng rời bỏ GHPGVNTN nhưng không có một lời than van trách cứ, vì tất cả quí ngài đều biết rằng GHPGVNTN là con đường chánh đạo.
Nay năm 2010, với một thời gian dài đủ cho sự nhận thức chánh – tà, hẳn ai ai cũng hiểu rõ nhiều hơn về mục đích và lập trường của GHPGVNTN trước hoàn cảnh Quốc nạn và Pháp nạn hiện nay.
Đâu đó nếu có ai lên tiếng trách cứ, chống đối, mạ lỵ GHPGVNTN, thì họ chỉ là những người làm nô lệ cho các thế lực vô minh.
Saigon, ngày 3.1.2010
Thích Viên Định
------------------------
GHI CHÚ CẦN BIẾT:
Bài viết trên đây tôi chỉ đề cập tổng quan các sự vụ nhằm phân tích một hiện trạng đau buồn của Phật giáo. Không đi vào những chi tiết vì sợ bài viết sẽ quá dài. Do đó, tôi xin ghi một số chứng liệu ở phần ghi chú này để độc giả dễ nắm vững vấn đề trong thực tế mà Giáo hội chịu đựng ba năm qua:
I. Một trích đoạn trong bản Phúc trình Phật sự của Hoà thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh thư ký Viện Tăng Thống, viết từ Huế gửi Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo ngày 8.9.2007 để rõ hơn về nhóm Thân hữu Già Lam trong và ngoài nước thông qua các vị tiêu biểu như TT. Tuệ Sỹ, Gs Lê Mạnh Thát, các Đạo hữu Trần Quang Thuận, Bùi Ngọc Đường :
“Một số Phật tử ở Úc và Hoa kỳ, có gọi điện về thăm và nhân tiện, bày tỏ sự bất bằng về một số Thượng tọa, Đại đức và Cư sĩ tu xuất, đang là Thành viên Hội đồng Điều hành GHPGVNTN/HN tại Úc và Hoa kỳ, lại đi vận động tách khỏi GHPGVNTN là vì sao ?
(...) “Điều mà Phật tử thắc mắc, chúng tôi thấy, đã được cụ thể qua quan điểm của anh Trần Quang Thuận và Bùi Ngọc Đường. Hai anh hồi cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 2007 ; anh Trần Quang Thuận chê trách Hòa Thượng Quảng Độ. Bùi Ngọc Đường ngoài những lời lẽ như anh Thuận ; Bùi Ngọc Đường còn thêm chê bai Giáo hội. Sau hết Bùi Ngọc Đường khuyên chúng tôi từ chức Chánh thư ký Viện Tăng Thống để nghỉ ngơi, giống hệt như lời Thượng tướng Công an Nguyễn Văn Hưởng đã khuyên Đức Tăng Thống thôi việc, nghỉ ngơi. Giọng điệu hai anh có vẻ như muốn thỏa hiệp, để được sinh hoạt, ý tưởng nầy còn được thấy rõ qua nhóm Thân Hữu Già Lam”.
“Chúng tôi được biết, ở Tu Viện Quảng Hương Già Lam [Saigon] ; cách đây một năm, đã hình thành một nhóm, có tên gọi “Thân Hữu Già Lam”. Thành viên khoảng trên dưới 40 vị gồm các thành phần Tu sĩ, Cư sĩ, Cư sĩ tu xuất. Các vị có mặt trong nước, ngoài nước khắp các châu lục. Các vị sinh hoạt dưới dạng Tăng già, chưa dám đứng hẳn vào Gíao hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh) năm 1981. Các vị quyên góp tiền gây quĩ xây dựng Đại Học, Thư Viện, Hội Trường, làm Văn Hóa Giáo Dục Phật Giáo. Đứng đầu nhóm có GS TS Lê Mạnh Thát, và học giả Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ…”.
II. Hoà thượng Thích Không Tánh, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội, trong thư trả lời Phật tử hải ngoại, cũng chú ý đến việc này và cho biết nhiều chi tiết quan trọng trong việc biến tướng GHPGVNTN nhằm thoả hiệp với nhà nước Cộng sản mà đứng đầu là vai trò TT Tuệ Sỹ, Gs Lê Mạnh Thát, TT Đức Thắng, TT Thanh Huyền, các Phật tử Bùi Ngọc Đường, Huỳnh Kim Quang, Vĩnh Hảo… :
“Chúng tôi xin xác nhận mấy việc:
“1. Vào khoảng năm 2004-2005, khi Ðại Hội của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ được thành công (nhờ Giáo Chỉ, Ðạo Từ của Ðệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Huấn Từ của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng VHĐ lưu nhiệm tất cả). Trong một cuộc họp tôi có trình lên Ban Chỉ Ðạo Viện Hóa Đạo ai cũng vui mừng, lúc đó TT Tuệ Sỹ có nói : “Thành công gì mà thành công ! Mọi việc người ta sắp xếp (nhân sự) đâu đó rồi tự nhiên Huấn Từ, Ðạo Từ ở đâu rớt xuống làm hỏng việc của người ta hết ! Ðây rồi họ (ý nói quý Thầy và các Phật tử : Tâm Huy [Huỳnh Kim Quang], Vĩnh Hảo, Bùi ngọc Ðường, v.v... ở Hoa Kỳ) sẽ từ chức hết chứ thành công gì mà thành công !”.
Thấy tình hình "căng" quá tôi và TT Thích Viên Ðịnh (Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo) cũng đứng dậy ra về. Khi xuống tới cầu thang, TT Viên Ðịnh có nói với tôi : Tôi không ngờ Thầy Tuệ Sỹ lại thất kính với Ðức Tăng Thống và HT Viện Trưởng như vậy !
2. Tôi không nhớ là năm nào, TT Tuệ Sỹ và TT Ðức Thắng (lúc bấy giờ là Tổng thơ ký Viện Hóa Đạo) có nói với tôi : “Chờ Thủ Tướng Phan Văn Khải về nước (lúc bấy giờ ông Phan Văn Khải công du Mỹ quốc) mình đem danh sách Hội đồng Viện Hóa Ðạo lên “Ðăng Ký” để Giáo Hội được sinh hoạt dễ dàng”. Tôi nghe thế có hỏi : “Vậy quý Thầy có trình việc nầy lên Cụ Viện Trưởng và Cụ Viện Trưởng có đồng ý không ?” Thì quý Thầy trả lời “Ðồng ý chứ sao không đồng ý” (trong thời gian đó, Công an canh gát Hòa Thượng rất kỹ, và 2 Thượng tọa Tuệ Sỹ, Đức Thắng cũng không có ai lên thăm HT Viện Trưởng cả).
3. Do quý Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử (GĐPT) nào đó ở Hải ngoại đề nghị mà TT Tuệ Sỹ cùng với Thầy Thanh Huyền (lúc bấy giờ là Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên) đã tấn phong một số Huynh Trưởng lên Cấp Dũng (trong đó có anh La Thanh Ty, một Huynh trưởng GÐPT ở Ðà Nẵng rất chống GHPGVNTN mà không trình và thông qua Hòa Thượng Viện Trưỏng được biết.
4. Sau khi Huynh trưởng Hạnh Minh - Hồ Tấn Anh tự thiêu để bảo vệ Giáo Hội và lên án Cộng sản đàn áp Nhân Quyền và Tự Do Dân Chủ, tôn Giáo... một số Huynh trưởng Miền Trung có vào gặp TT Tuệ Sỹ xin ra Thông Bạch Truy Niệm, Cầu Siêu, thì TT nói : “Tự thiêu sao không báo cho Thượng tọa biết ! Tự thiêu như vậy là vi phạm Nhân Quyền !”.
5. Nhiều Thầy và Phật tử ở hải ngoại qúy tài làm thơ và dịch kinh của TT Tuệ Sỹ, cũng như ủng hộ đường lối, lập trường của Tuệ Sỹ trước kia [khi chưa thay đổi], nên khi thấy TT Tuệ Sỹ không có tên trong Hội đồng Viện Hóa Ðạo vào năm 2005 nữa, thì cho rằng HT Viện Trưởng độc tài, loại bỏ Thầy Tuệ Sỹ. Sự thật, HT Viện Trưởng có Chỉ Ðạo TT Viên Ðịnh mời TT Tuệ Sỹ về Chùa Giác Hoa họp Viện Hoá Đạo, nhưng TT Tuệ Sỹ đã lấy cớ "Nhập Thất" không đến, nhưng sau đó lại đi Nha Trang dự đám tang Ni sư Tâm Ðăng viên tịch, nên HT Viện Trưởng đã chỉ đạo cho tôi ra Nha Trang để thỉnh TT Tuệ Sỹ giữ chức Chủ Tịch Hội Ðồng Phiên Dịch Viện Tăng Thống và tấn phong TT lên Hòa Thượng, nhưng TT đã từ chối và nói : “Tôi đã có hứa làm việc với Thầy Lê Mạnh Thát, hơn nữa tôi đã có đơn từ chức rồi, xin Thầy thưa với HT Viện Trưởng đừng có tấn phong, bổ nhiệm gì cả, tôi sẽ có thư từ chối, thì kỳ lắm....”. Việc TT Tuệ Sỹ từ chức, kéo theo các TT Phước Viên, Ðức Thắng, Phước An... đồng loạt xin từ chức ! Vì thế nhiệm kỳ 2005 không có tên của quý TT trên trong Hội Ðồng Lưỡng Viện của GHPGVNTN nữa!
6. Khi vừa được Ðại Lão HT thích Huyền Quang và HT Viện Trưởng mời TT Tuệ Sỹ làm Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư Ký VHÐ (cuối năm 1999) thì Thầy đã nhiều lần yêu cầu tôi không nên liên lạc, tiếp xúc với GS Võ văn Ái đang đảm đương nhiệm vụ Giám Ðốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Phát ngôn nhân của Viện Hóa Đạo trong nước !
Có rất nhiều việc, tôi không nhớ hết ! Xin tóm tắt lại mấy việc để anh và quý Phật tử nào, một lòng trung kiên với lý tưởng và lập trường của GHPGVNTN được biết về hướng đi của TT Tuệ Sỹ. Theo tôi, có nhiều việc TT Tuệ Sỹ khó lòng chủ động được….”.
III. Tường trình từ Huế về” Mưu đồ của Thượng tọa Tuệ sỹ với GHPGVNTN” của Huynh trưởng Lê Nguyễn Minh Đức:
“... Sau khi không tham gia GHPGVNTN, Thầy Tuệ Sỹ đã nhiều lần vận động tôi (lời HT Thích Thiện Hạnh kể) nghỉ việc. Năm 2007 khi đưa Đức Tăng Thống vào điều trị tại bệnh viện Pháp Việt, tôi về nghỉ tại Già lam, Thầy Tuệ Sỹ nói với tôi rằng : “ Ôn nên nghỉ việc đi, theo Di chúc của Hoà Thượng Huyền Quang mà Bùi Ngọc Đường đọc được thì Ôn không có chức vụ chi mô. Ôn nghỉ đi và cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát. Sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại”. Tôi đã nói cho Thầy Tuệ Sỹ biết rằng tôi làm việc vì Gíao hội, vì tấm lòng của tôi đối với Nhị Vị Lãnh Đạo, xin Thầy hãy bỏ luận điệu ấy đi và xin Thầy suy nghĩ cho kỹ về hành động của mình.
“Thế nhưng khi tôi về Huế, Thầy Tuệ Sỹ lại gọi điện ra nhắc lại một lần nữa, sau đó có Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận về vận động tôi nghỉ theo ý đồ của Thầy Tuệ Sỹ như tôi đã nói trong bản Phúc Trình Phật Sự của Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống đã phổ biến.”
”Tham vọng của Thầy Tuệ Sỹ đã thể hiện qua tiến trình như sau:
- Giai đoạn 1: Loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo Tối Cao để chiếm vị thế : Như trên chúng ta thấy, từ lâu Thầy Tuệ Sỹ đã có quan hệ với Chính Quyền, nắm bắt được ý đồ của Chính Quyền là muốn loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo Tối Cao. Để gây áp lực với Nhị Vị Lãnh Đạo
Thầy đưa ra chiêu bài “đăng ký” Chính Quyền để gài GHPGVNTN vào bẫy, để Nhị Vị Lãnh Đạo nản lòng mà rút lui. Nếu kế hoạch nầy thành công, dĩ nhiên Phó Viện Trưởng Thích Tuệ Sỹ sẽ nghiễm nhiên ngồi vào ngôi vị lãnh đạo tối cao GHPGVNTN như cả Thầy lẫn chính quyền mong nuốn.
- Giai đoạn 2: Không chiếm được vị thế lãnh đạo thì tiếm quyền : Vì không đạt được mưu đồ loại bỏ Nhị Vị Lãnh Đạo để làm Viện Trưởng cho nên : Thầy bắt đầu tiếm quyền như quyết định công cử Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử Vụ, quyết định thăng Cấp Dũng, quyết định tổ chức “Gia Đình Phật Tử trên Thế giới” mà không trình cho HT Viện Trưởng biết. Có lẽ Thầy nghĩ rằng Hoà Thượng Viện trưởng sẽ bị quản thúc không có ngày tự do, cho nên dù có biết, Hoà Thượng cũng chẳng làm gì được.
- Giai đoạn 3: Không tiếm quyền được, Thầy bèn phá rối cho Giáo hội tan nát : bằng cách nhũng nhiễu chức vụ, vận động Quí Tổng Vụ trưởng đồng loạt từ chức… để cho Gíao hội không có nhân sự mà phải đi đến chổ tan rã.
- Giai đoạn 4: Khi Giáo hội tan rã, Thầy sẽ đứng ra tổ chức lại Gíáo hội : Đây là tham vọng cuối cùng. Tham vọng nầy đã thể hiện trong câu nói khi Thầy vận động Hòa thượng Thiện Hạnh nghỉ việc: “Ôn nghỉ việc đi rồi cầu nguyện cho con và Lê Mạnh Thát, sau nầy chúng con sẽ cung thỉnh Ôn trở lại”.
Vì tham vọng ấy mà Thầy đã im lặng ( hay nói cách khác là ngấm ngầm hổ trợ ) để cho Thân Hữu Già Lam, Về Nguồn, Tăng Ni Hải Ngoại suy tôn Thầy, tích cực chống lại GHPGVNTN. Vì tham vọng ấy mà Thầy bảo bọc nuôi dưỡng, dạy dổ Gia Đình Phật Tử của nhóm Nguyễn Châu - Bạch Hoa Mai để hậu thuẩn cho Thầy hôm nay và mai sau”.